TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 217/2018/DS-PT NGÀY 07/11/2018 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 07 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 109/2018/TLPT-DS ngày 30 tháng 7 năm 2018, về việc “Tranh chấp đòi tài sản”.
Do Bản án Dân sự sơ thẩm số: 49/2018/DS-ST ngày 18 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 177/2018/QĐ-PT ngày 27 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1963; cư trú tại: Xã Phú L, huyện Tân P, tỉnh Đồng N; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1948; cư trú tại: Khu phố A, thị trấn D, huyện D, tỉnh T (theo Giấy ủy quyền ngày 26-12-2017); có mặt.
- Bị đơn: Bà Đặng Thị L, sinh năm 1965; cư trú tại: Đường Hoàng Lê K, khu phố B, Phường B, thành phố T, tỉnh T; có mặt.
- Người kháng cáo: Bà Đặng Thị L là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 27-12-2017 của nguyên đơn - ông Nguyễn Văn C và quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn – ông Nguyễn Văn T trình bày:
Cha mẹ ông C là cụ Nguyễn Văn G, sinh năm 1917 (chết năm 1981) và cụ Nguyễn Thị K, sinh năm 1923 (chết năm 1997) quá trình chung sống có tạo lập được phần đất diện tích 443 m2 tọa lạc tại khu phố A, Phường B, thành phố T, tỉnh T.
Cụ G và cụ K có 07 người con gồm: Nguyễn Thị G1 (không nhớ năm sinh); Nguyễn Thị V, sinh năm 1944 (là mẹ của bà Đặng Thị L, bà V chết năm 2005); Nguyễn Văn Y, sinh năm 1949; Nguyễn Văn T, sinh năm 1948; Nguyễn Thị Ngọc A, sinh năm 1952; Nguyễn Văn C1, sinh năm 1952; Nguyễn Văn C, sinh năm 1963.
Năm 1999, anh chị em ông C đi làm ăn xa, thống nhất cho bà Đặng Thị L ở và trông coi đất. Nhưng bà L làm giấy hợp thức hóa quyền sử dụng đất, được Ủy ban nhân dân thị xã Tây Ninh (nay là thành phố Tây Ninh) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 195206 (số vào sổ H 00535/P3) cấp ngày 23-5- 2005 do bà Đặng Thị L đứng tên quyền sử dụng đất.
Trong Tờ thuận phân ngày 08-11-2004 chỉ có bà V, ông C, ông T ký tên ông C nghĩ bà L sẽ không làm giấy tờ đất được nên mới ký tên. Nhưng sau này ông C phát hiện bà L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên năm 2015 yêu cầu giải quyết.
Ngày 10-7-2015, tại UBND Phường 3, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh tiến hành hòa giải vụ việc giữa anh em ông C và bà L. Bà L đồng ý chi trả cho mỗi người 50.000.000 đồng gồm: Ông T, ông C, ông C2, bà G1, bà A, ông Y, trả vào ngày 10-02-2016 nhưng bà L vẫn chưa trả số tiền này cho ông C.
Nay ông C khởi kiện yêu cầu bà L trả cho ông số tiền 50.000.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn - bà Đặng Thị L trình bày:
Bà xác nhận nguồn gốc phần đất 443 m2 nêu trên là của cụ Nguyễn Văn G và cụ Nguyễn Thị K; cụ G và cụ K có 07 người con như ông C, ông T trình bày là đúng.
Năm 1997, cụ K chết ông C, ông T, bà A, ông C2, ông Y, bà G1, bà V (mẹ bà L) thống nhất bán cho bà L phần đất 443 m2 với giá 10.000.000 đồng; có làm giấy tờ mua bán nhưng giấy mua bán đất đã bị thất lạc. Hai bên đã giao tiền và giao đất cho nhau, số tiền 10.000.000 đồng bà trả cho ông C có mặt ông C, ông Y, bà A, bà G1, bà V chứng kiến, trả tiền làm hai lần, việc giao nhận tiền không làm giấy tờ. Bà đã quản lý, sử dụng phần đất này từ năm 1997 cho đến năm 2001 bà làm giấy đất nhưng do thuế cao nên đến năm 2004 để không phải tốn tiền thuế, các bên thống nhất làm Tờ tương phân ngày 08-11-2004 đồng ý cho bà L phần đất này nhưng tờ tương phân chỉ có bà V, ông T, ông C ký tên.
Đến ngày 23-5-2005, bà được Ủy ban nhân dân thị xã Tây Ninh (nay là thành phố Tây Ninh) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 195206 (số vào sổ H00535/P3) diện tích 443,10 m2, thửa 121, tờ bản đồ số 49. Năm 2015, bà L dự định xây nhà nên có tách quyền sử dụng đất cho các con là Đặng Hoàng G2, Đặng Kim T1 mỗi người con 05 m ngang; phần đất còn lại bà và chồng bà (ông Đặng Kim H) đứng tên quyền sử dụng đất.
Bà thừa nhận có ký tên vào Biên bản hòa giải ngày 10-7-2015, tại Ủy ban nhân dân Phường 3, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, nội dung bà đồng ý chi trả cho mỗi người 50.000.000 đồng gồm: Ông T, ông C, ông C2, bà G1, bà A, ông Y, trả vào ngày 10-02-2016. Bà có đọc lại nội dung biên bản đồng ý ký tên nhưng do bà nghĩ có tờ tương phân là ông C, ông T đồng ý cho bà đất nếu ông C, ông T khởi kiện yêu cầu bà trả 50.000.000 đồng thì bà không phải trả.
Nay ông C yêu cầu bà trả số tiền 50.000.000 đồng bà không đồng ý do ông C đã nhận tiền mua đất là 10.000.000 đồng.
Tại Bản án Dân sự sơ thẩm số: 49/2018/DS-ST ngày 18-6-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh đã quyết định:
Căn cứ Điều 256 của Bộ luật Dân sự năm 2005; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp đòi tài sản” của ông Nguyễn Văn C đối với bà Đặng Thị L.
Buộc bà Đặng Thị L có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn C số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc bà Đặng Thị L phải chịu án phí là 2.500.000 (hai triệu năm trăm ngàn) đồng.
Ông Nguyễn Văn C không phải chịu án phí. Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn C số tiền án phí đã nộp 1.250.000 (một triệu hai trăm năm mươi nghìn) đồng theo Biên lai thu số: 0004999 ngày 11-01-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
Ngoài ra bản án còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, quyền và nghĩa vụ thi hành án, quyền kháng cáo.
Ngày 02 tháng 7 năm 2018, bà Đặng Thị L có đơn kháng cáo với nội dung: Yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo tuyên bà L không phải trả tiền cho ông C.
Tại phiên tòa: Ông T đại diện cho ông C xác định ông C giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bà L trả cho ông C số tiền 50.000.000 đồng; bà L giữ nguyên kháng cáo, không đồng ý trả cho ông C số tiền 50.000.000 đồng vì cho rằng ông C đã chuyển nhượng đất cho bà, có một số người chứng kiến việc bà trả cho ông C 10.000.000 đồng tiền mua đất; bà đã trả cho ông Y xong số tiền 50.000.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh phát biểu ý kiến như sau: Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Không chấp nhận kháng cáo của bà Đặng Thị L;
+ Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên Bản án Dân sự sơ thẩm số: 49/2017/DS-ST ngày 18-6-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, xét thấy:
[1] Xét kháng cáo của bà Đặng Thị L không đồng ý trả cho ông C 50.000.000 đồng, thấy rằng:
Tại Biên bản hòa giải ngày 10-7-2015 của Ủy ban nhân dân thị xã Tây Ninh (bút lục số 33, 34,35), bà L đồng ý trả mỗi người 50.000.000 đồng gồm: Ông T, ông C, ông C2, bà G1, bà A, ông Y , trả vào ngày 10-02-2016. Bà L cho rằng năm 1997 ông C đã bán phần đất 443 m2 cho bà giá 10.000.000 đồng, có làm giấy tay nhưng đã thất lạc không C, bà đã trả 10.000.000 đồng cho ông C có một số người chứng kiến.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông Đ xác định có cho bà L mượn 3.000.000 đồng để trả cho ông C tiền mua đất; ông T không thừa nhận cho rằng 3.000.000 đồng trả ông C là trả tiền bà L mua nhà ngói của ông C không phải trả tiền mua đất.
Ông C và người đại diện theo ủy quyền không thừa nhận việc ông C bán đất cho bà L; qua xác minh những người làm chứng do bà L yêu cầu xác định không chứng kiến việc bà L trả tiền mua đất cho ông C. Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà L trả ông C 50.000.000 đồng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Bà L kháng cáo nhưng không có chứng cứ chứng minh cho việc mua đất, cũng như trả tiền mua đất cho ông C xong, lời khai của những người làm chứng chưa đủ cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bà L. Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở chấp nhận cáo của bà L; giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
[2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Tại khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 quy định: “Đương sự kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, nếu Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm”. Do kháng cáo của bà L không được chấp nhận nên bà phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự .
Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Lợi, giữ nguyên Bản án Dân sự sơ thẩm số 49/2018/DS-ST ngày 18-6-2018 của Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
2. Căn cứ Điều 256 của Bộ luật Dân sự năm 2005; khoản 2 Điều 26; khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp đòi tài sản” của ông Nguyễn Văn C đối với bà Đặng Thị L.
Buộc bà Đặng Thị L có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn C số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng.
Kể từ ngày ông C có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà L không trả số tiền nêu trên, thì hàng tháng bà L còn phải trả cho ông C số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
2.2.Về án phí:
+ Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bà Đặng Thị L phải chịu án phí là 2.500.000 (hai triệu năm trăm ngàn) đồng.
Ông Nguyễn Văn C không phải chịu án phí. Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh hoàn trả cho ông Nguyễn Văn C số tiền án phí đã nộp 1.250.000 (một triệu hai trăm năm mươi nghìn) đồng theo biên lai thu số 0004999 ngày 11-01-2018.
+ Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Đặng Thị L phải chịu 300.000 đồng, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà L đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0005680 ngày 04-7-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 217/2018/DS-PT ngày 07/11/2018 về tranh chấp đòi tài sản
Số hiệu: | 217/2018/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 07/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về