TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 652/2022/HC-PT NGÀY 18/08/2022 VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH VI HÀNH CHÍNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngày 18 tháng 8 năm 2202 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 288/2022/TLPT-HC ngày 06-6-2022 về việc “Khiếu kiện hành vi hành chính về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đất đai”.Do Bản án hành chính sơ thẩm số 10/2022/HC-ST ngày 18-4-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 720/2022/QĐPT- HC ngày 05-7-2022, giữa các đương sự:
* Người khởi kiện: Bà Huỳnh Kim H, sinh năm 1961.
Địa chỉ: Số 07 đường V, Khóm A, Phường B, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu (có đơn xin vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Huỳnh Hồng D, sinh năm 1984; địa chỉ: Số 07 đường V, Khóm A, Phường B, thành phố B, tỉnh B; có đơn xin xét xử vắng mặt.
* Người bị kiện:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B.
Địa chỉ: Số 05 đường Nguyễn Tất Thành, Phường 1 thành phố Bạc Liêu, tỉnh B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn T, chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B (có đơn xin vắng mặt).
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B.
Địa chỉ: Số 12 đường T, Khóm X, Phường y, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Lê Kim T, chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B (có đơn xin vắng mặt).
* Người kháng cáo: Người khởi kiện bà Huỳnh Kim H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Người đại diện theo ủy quyền của bà Huỳnh Kim H trình bày: Bà Ngô Â là mẹ bà Huỳnh Kim H được chính quyền chế độ cũ cấp cho diện tích 320.000m2 nay thuộc khu vực Phường B, thành phố B, tỉnh B. Sau đó, bà Ngô Â cho bà Huỳnh Kim H và bà H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 120.000m2 vào ngày 01-7-1995, còn lại diện tích 200.000m2 bà H có đăng ký kê khai nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Để chứng minh cho việc bà Ngô Â là chủ sử dụng đất và bà Huỳnh Kim H là người được thừa kế phần đất thì bà H đã giao nộp cho Tòa án Nghị định số 002541N/CCĐDNN/HCTC-3/NĐ ngày 06-3-1973, tờ di chúc đứng tên bà Ngô Â đề ngày 15-9-1988, tờ ủy quyền đứng tên bà Ngô Â ngày 05-4-1991 và bản án của Tòa sơ thẩm B ngày 05-10-1973.
Hiện nay, bà H chỉ còn được sử dụng 74,4m2 trong tổng số diện tích 320.000m2 thừa kế từ bà Ngô Â, phần còn lại nhà nước đã lấy để làm một số cơ quan nhà nước như công viên L, Tỉnh đội, Chi cục thú y tỉnh B, trường Văn hóa nghệ thuật tỉnh B và các hộ dân lân cận lấn chiếm sử dụng. Do đó, bà H đã có đơn khiếu nại gửi đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B yêu cầu giải quyết đối với phần đất có diện tích 320.000m2 nhưng đến nay vẫn không nhận được Quyết định giải quyết khiếu nại nào ngoài Văn bản số 1415/UBND-NC ngày 11-5-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu.
Vì vậy, nay bà Huỳnh Kim H yêu cầu Tòa án buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành quyết định giải quyết khiếu nại đối với diện tích đất 320.000m2 cho bà.
Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B trình bày: Trước đây, gia đình bà H có đơn yêu cầu cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 200.000m2 đất tại Phường B, thành phố B. Yêu cầu cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 120.000m2 đất tại Phường B, thành phố B. Ngày 11-5-2012, Ủy ban nhân dân tỉnh B đã ban hành Công văn số 1415/UBND về việc trả lời khiếu nại của bà Huỳnh Kim H với nội dung về phần đất 03 ha thuộc khu vực công viên L thì bà H không có tư cách pháp lý khiếu nại phần đất này. Đối với phần đất mà Chi cục thú y tỉnh B quản lý là do nhà nước thu hồi của Bà Trần Thị H1 và đã trả hoa lợi cho bà H1 nên yêu cầu của bà H không có cơ sở. Đối với yêu cầu trả lại phần đất 14.600m2 do bà H đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 1992 thì bà H có quyền khiếu nại tại cơ quan chức năng thành phố B theo đúng thủ tục. Như vậy, yêu cầu liên quan đến phần đất có diện tích 200.000m2 đã được Ủy ban nhân dân tỉnh B giải quyết bằng Văn bản số 1415/UBND ngày 11-5-2012. Do đó, Ủy ban nhân dân thành phố B chỉ xem xét đối với nội dung cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Huỳnh Kim H đối với 120.000m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H được cấp vào ngày 01-7-1995. Qua rà soát, không tìm thấy hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0295 do UBND thị xã B cấp cho bà Huỳnh Kim H ngày 01-7-1995. Mặt khác, Phòng Tài nguyên & Môi trường thị xã B (thành phố B) cũng chưa từng tham mưu việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H vì vào năm 1995 chưa có bản đồ địa chính, năm 1996 mới đo đạc bản đồ. Tại Sổ mục kê cũng như trên bản đồ địa chính năm 1997 thể hiện bà H chỉ đăng ký thửa đất có 106,6m2 đất tại Khóm A, Phường B, thành phố B. Đồng thời, thực tế Phường B chỉ có một hệ thống bản đồ năm 1996 và theo hệ thống bản đồ này thì khu vực bà H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tờ bản đồ số 30 chứ không phải tờ bản đồ số 05 như trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H ghi. Ngoài ra, các thửa đất ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H hiện nay do các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình đang quản lý và sử dụng ổn định, có đăng ký kê khai sử dụng đất tại Phường B, thành phố B.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 10/2022/HC-ST ngày 18-4-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B đã quyết định:
Áp dụng Điều 22, Điều 26, Điều 105 Luật Đất đai năm 2013; Luật Khiếu nại năm 2011; Thông tư 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ địa chính. Tuyên xử:
Bác yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Kim H về việc yêu cầu Tòa án buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành quyết định giải quyết khiếu nại đối với diện tích đất 320.000m2 cho bà.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm xong, người khởi kiện bà Huỳnh Kim H kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đề nghị căn cứ vào khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính 2015. Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của người khởi kiện bà Huỳnh Kim H. Sửa Bản án 10/2022/HC-ST ngày 18-4-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; thẩm tra công khai tại phiên tòa và quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Đối tượng khởi kiện: Bà Huỳnh Kim H yêu cầu Tòa án buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành quyết định giải quyết khiếu nại đối với diện tích đất 320.000m2 cho bà. Đây là hành vi hành chính liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B. Ngày 20-10-2020, bà Huỳnh Kim H khởi kiện vụ án hành chính nên Tòa án nhân dân tỉnh B thụ lý để giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32 điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.
[2] Đối với yêu cầu cấp mới 200.000m2 đất tại Khu vực Phường B, thành phố B, tỉnh B: Ngày 11-5-2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B đã ban hành Công văn số 1415/UBND-NC về trả lời khiếu nại của bà Huỳnh Kim H liên quan đến phần đất tranh chấp 200.000m2 nêu trên. Văn bản nêu rõ, yêu cầu của bà Huỳnh Kim H liên quan đến phần đất 200.000m2 tại Khu vực Phường B thành phố B, tỉnh B là không có căn cứ chấp nhận. Theo lời trình bày của ông Huỳnh Hồng D (người đại diện theo ủy quyền của bà Huỳnh Kim H) thừa nhận hộ bà H đã nhận được Công văn số 1415/UBND-NC của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B vào năm 2018 nhưng không khởi kiện ngay, trong khi đơn khởi kiện ghi ngày 20/10/2020 (Điều 116 Luật tố tụng hành chính). Do đó, việc bà Huỳnh Kim H cho rằng Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B có hành vi không giải quyết khiếu nại cho bà là không chính xác.
[3] Đối với yêu cầu cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng 120.000m2 đất tại Khu vực Phường B, thành phố B, tỉnh B: Ủy ban nhân dân thành phố B khẳng định bà Huỳnh Kim H có quyền đề nghị cấp đổi diện tích đất này nhưng lại cho rằng bà H không cung cấp được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0295 do UBND thị xã B cấp cho bà Huỳnh Kim H ngày 01-7-1995 (chỉ cung cấp bản phôtô). Đồng thời, qua kiểm tra, rà soát cũng không tìm thấy hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Công văn số 1035/CV ngày 01-11-2017 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố B cũng xác định là chưa từng tham mưu cho Ủy ban nhân dân thị xã B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H. Ủy ban nhân dân các cấp của tỉnh B đưa ra lý do này để không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại của bà H là vi phạm Điều 14 Luật khiếu nại của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 11-11-2011.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy có cơ sở chấp nhận một phầnkháng cáo của bà Huỳnh Kim H. Chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Sửa bản án hành chính sơ thẩm.
[4] Về án phí:
Vì các lẽ nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính 2015;
1. Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của bà Huỳnh Kim H. Sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 10/2022/HC-ST ngày 18-4-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B. Xử:
Áp dụng Điều 22, Điều 26, Điều 105 Luật Đất đai năm 2013; các Điều 14, 18, 21 Luật Khiếu nại năm 2011; Thông tư 24/2014/TT-BTNMT ngày 19-5-2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ địa chính.
Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của bà Huỳnh Kim H về yêu cầu Tòa án buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành quyết định giải quyết khiếu nại đối với diện tích 320.000m2 đất cho bà Huỳnh Kim H.
2. Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 349 Luật tố tụng hành chính năm 2015; khoản 2 Điều 30, khoản 2 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Bà Huỳnh Kim H không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
Bà Huỳnh Kim H không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. Hoàn trả lại cho bà Huỳnh Kim H số tiền 300.000đ (ba trăn ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0000003 ngày 07-4-2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố B phải chịu số tiền 300.000đ (ba trăn ngàn đồng) án phí hành chính sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 18 - 8 - 2022./.
Bản án 652/2022/HC-PT về khiếu kiện hành vi hành chính quản lý Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai
Số hiệu: | 652/2022/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 18/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về