TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 617/2022/HS-PT NGÀY 30/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 và 30 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 433/2020/TLPT-HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo Nguyễn Tiến BC1, Phạm Văn BC2 do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 270/2020/HS-ST ngày 22/7/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Tiến BC1; sinh ngày: 24/7/1978, tại P; Thường trú: 46/270 đường Đà Nẵng, phường Cầu Tre, quận Ngô Quyền, thành phố P; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Đình C và bà Phạm Thị B; Có vợ 1: Nguyễn Bích V (đã ly hôn) và 02 con, lớn sinh năm: 2011, nhỏ sinh năm: 2013; Vợ 2: Đỗ Thị Thúy N và 02 con, lớn sinh năm: 2015, nhỏ sinh năm: 2017; Tiền sự: Không; Tiền án:
+ Ngày 22/02/2005 bị Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố P xử phạt 06 năm tù về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và 04 năm tù về tội: “Làm giả con dấu tài liệu của cơ quan tổ chức” tại bản án số 33/HSST, tổng hợp hình phạt của hai tội là 10 năm tù, sau khi xét xử bị cáo BC1 kháng cáo bản án sơ thẩm xin giảm nhẹ hình phạt. Tại bản án hình sự phúc thẩm số 45/2005/HSPT ngày 12/4/2005 của Tòa án nhân dân thành phố P đã chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử phạt bị cáo BC1 05 năm tù về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và 03 năm tù về tội: “Làm giả con dấu tài liệu của cơ quan tổ chức”, tổng hợp hình phạt của hai tội là 08 năm tù, chấp hành xong ngày 26/01/2011.
+ Ngày 08/01/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 04 năm tù về tội: “Làm giả con dấu tài liệu của cơ quan tổ chức” tại bản án số 03/2015/HSST, sau khi xét xử bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại bản án hình sự phúc thẩm số 146/2015/HSPT ngày 30/10/2015 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội đã chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử phạt Nguyễn Tiến BC1 03 năm tù về tội: “Làm giả con dấu tài liệu của cơ quan tổ chức”, chấp hành xong ngày 25/01/2017.
Nhân thân:
+ Ngày 30/4/1994 bị Công an thành phố P bắt về hành vi cướp tài sản của Công dân và cưỡng đoạt tài sản của Công dân. Ngày 29/8/21994 Viện kiểm sát nhân dân thành phố P ra Quyết định trả tự do vì Nguyễn Tiến BC1 chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
+ Ngày 16/02/1998 bị Tòa án nhân dân thành phố P1, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 21 tháng tù về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại bản án số 24/HS, chấp hành xong ngày 18/02/1999.
+ Ngày 17/01/2000 bị Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách là 24 tháng về tội: “Cố ý gây thương tích” tại bản án số 04/HS-ST, chấp hành xong ngày 30/8/2002.
+ Trong các ngày 11,12,13 tháng 3 năm 2003 bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 07 tháng 03 ngày tù về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại bản án số 162/HSST, chấp hành xong ngày 13/3/2003.
+ Ngày 06/9/2014 bị Phòng Cảnh sát Hình sự Công an thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính số tiền 15.000.000 đồng về hành vi: “Mua bán, vận chuyển, tàng trữ vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ không có giấy phép” tại Quyết định số 295882, bị cáo đã chấp hành xong ngày 09/9/2014.
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/12/2018 – Có mặt.
2. Phạm Văn BC2; sinh ngày: 03/5/1986, tại P; Thường trú: Thôn Ngọc Khê, xã Phù Ninh, huyện C3, thành phố P; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Phạm Văn T1 và bà Nguyễn Thị D; Có vợ Trịnh Thị Thu H1 và 02 con, lớn sinh năm: 2007, nhỏ sinh năm: 2011; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/12/2018 – Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tiến BC1:
1. Luật sư Nguyễn Văn T2, thuộc đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt) (theo chỉ định).
2. Luật sư Trịnh Bá T3, thuộc đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt) (theo yêu cầu).
3. Luật sư Trương Thị Minh T4, thuộc đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt) (theo yêu cầu).
4. Luật sư Nguyễn Thị K1 T5, thuộc đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.
(có mặt) (theo yêu cầu).
- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn BC2 theo chỉ định: Luật sư Đỗ Hải B, thuộc đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Bà Phan Đại Kim O; Sinh năm: 1985; Thường trú: 6.6 Topaz 1, Chung cư Sài Gòn Pearl, số x, đường N, Phường 22, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 50 phút ngày 14/12/2018, tại khu vực cổng số 1, Bến xe Miền Đông, phường 26, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổ công tác của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Bộ Công an, phối hợp với các lực lượng chức năng, phát hiện Nguyễn Tiến BC1 và Phạm Văn BC2, đang bốc dỡ lấy hành lý gồm 01 va ly màu xám và 01 túi du lịch màu xanh từ cốp sau xe ô tô Mercedes-Benz màu trắng, biển số 30A-168.13 đưa xuống đất. Qua kiểm tra bên trong va ly và túi du lịch, phát hiện có 28 túi nylon màu trắng chứa nhiều viên nén hình tròn màu vàng nhạt và 99 túi nylon màu trắng chứa nhiều viên nén hình tròn màu xanh. Tất cả các viên nén màu vàng nhạt và màu xanh đều có chữ “LV”. Theo Phạm Văn BC2 khai các viên nén chứa trong va ly và túi xách nêu trên là chất ma túy, BC2 và BC1 vận chuyển từ Campuchia đến Bến xe Miền Đông để đưa về thành phố P. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với Nguyễn Tiến BC1 và Phạm Văn BC2, thu giữ và niêm phong vật chứng (BL 17-24).
Tại bản Kết luận giám định số 486/1/C09B ngày 17/12/2018 của Phân viện Khoa học hình sự - Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Toàn bộ viên nén hình tròn màu xanh và màu vàng có chữ “LV” là ma túy, loại MDMA, tổng khối lượng 44.600,22 (bốn mươi bốn nghìn, sáu trăm phẩy hai) gam (BL 40).
Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 15/12/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra – Bộ Công an, khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn BC2 tại thôn Ngọc Khê, xã Phù Ninh, huyện C3 thành phố P, thu giữ trên nóc tủ quần áo trong phòng ngủ phụ 01 hộp giấy, bên trong có 01 túi ny lon chứa nhiều viên nén màu xanh, trên mỗi viên nén đều có chữ “LV”.
Tại bản Kết luận giám định số 779/C09B ngày 21/01/2019 của Phân viện Khoa học hình sự - Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Các viên nén hình tròn màu xanh có chữ “LV” là ma túy, loại Methamphetamine, MDMA, tổng khối lượng 59,5980 (năm mươi chín phẩy năm chín tám mươi) gam (BL 29, 52).
Quá trình điều tra đã xác định được như sau:
Hành vi tàng trữ 59,5980 gam ma túy loại MDMA của Phạm Văn BC2.
Nguyễn Tiến BC1 và Phạm Văn BC2 là bạn bè, quen biết nhau từ năm 2012 tại Móng Cái, Quảng Ninh. Khoảng 22 giờ ngày 11/12/2018 BC1 gọi điện thoại cho BC2 nói BC2 đến nhà BC1 tại số 206 GH7 Khu đô thị mới đường nối Lạch Tray-Hồ Sen-Cầu Rào II, phường C1, quận C2, thành phố P có chút việc. Lúc này BC2 đang đi chơi ở Kinh Môn, Hải Dương, đi thẳng tới nhà BC1. Tại đây BC1 đưa cho BC2 01 hộp giấy loại vỏ hộp điện thoại, có dán băng keo trắng bên ngoài. BC1 nói BC2 cầm giúp BC1, lúc nào BC1 nói đưa cho ai thì đưa. BC2 cầm hộp giấy cất vào cốp xe máy đi về nhà mình tại thôn Ngọc Khê, xã Phù Ninh, huyện C3 thành phố P. Về đến nhà BC2 mở hộp giấy của BC1 đưa ra xem thì thấy bên trong có 01 túi nylon chứa khoảng hơn 100 viên nén hình tròn màu xanh có chữ “LV”, BC2 biết đây là thuốc lắc nên giấu hộp ma túy này lên nóc tủ quần áo trong phòng ngủ (BL 350. 361, 366, 371, 372, 377, 381, 383).
Ngày 15/12/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra – Bộ Công an, khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn BC2 tại thôn Ngọc Khê, xã Phù Ninh, huyện C3 thành phố P, thu giữ hơn 100 viên nén hình tròn màu xanh có chữ “LV”. Kết luận giám định số 779/C09B ngày 21/01/2019 của Phân viện Khoa học hình sự - Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Hơn 100 viên nén hình tròn màu xanh có chữ “LV” là ma túy, loại Methamphetamine, MDMA, tổng khối lượng 59,5980 (năm mươi chín phẩy năm chín tám mươi) gam.
Quá trình điều tra Nguyễn Văn BC2 đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung nêu trên phù hợp với biên bản khám xét, vật chứng là số ma túy thu giữ tại nhà BC2 và Bản kết luận giám định, đã có đủ căn cứ kết luận Phạm Văn BC2 có hành vi tàng trữ trái phép 59,5980 (năm mươi chín phẩy năm chín tám mươi) gam ma túy, loại Methamphetamine, MDMA.
Riêng Nguyễn Tiến BC1 không thừa nhận việc gửi BC2 cất giữ hộp ma túy vào ngày 11/12/2018. Do chỉ có duy nhất lời khai của Phạm Văn BC2 nên không đủ cơ sở để xử lý Nguyễn Tiến BC1 về hành vi này (BL 229, 307, 346- 387).
Hành vi vận chuyển 44.600,22 gam ma túy loại MDMA của Nguyễn Tiến BC1 và Phạm Văn BC2.
Khoảng đầu tháng 12 năm 2018 BC1 rủ BC2 đi Campuchia chơi, BC2 đồng ý và nói với BC1 khi nào đi thì nói. Ngày 11/12/2018 BC1 gọi điện thọai rủ BC2 đi Campuchia, BC2 đồng ý. BC1 đặt vé máy bay chiều P đi Thành phố Hồ Chí Minh cho BC2 bay chuyến 17 giờ 45 phút ngày 12/12/2018 hãng Vietjet rồi nhắn tin lịch trình bay cho BC2. Còn BC1 đặt vé máy bay cho BC1 chiều P đi Thành phố Hồ Chí Minh, chuyến 16 giờ 45 phút ngày 12/12/2018 hãng Việt Nam Airline.
Trưa ngày 12/12/2018 BC1 gọi điện thoại cho BC2 hẹn ra sân bay Cát Bi, P để bay vào Thành phố Hồ Chí Minh. BC2 mang theo 02 bộ quần áo bỏ trong 01 túi nylon màu đỏ rồi ra Sân bay Cát Bi gặp BC1 lúc khoảng 15 giờ 30 phút, BC1 mang theo 01 va ly màu xám. BC1 vào làm thủ tục còn BC2 đứng ngoài chờ và giữ hành lý cho BC1. Làm thủ tục xong BC1 quay ra lấy hành lý của BC1 là chiếc va ly màu xám để bay trước và hẹn BC2 khi nào vào đến Thành phố Hồ Chí Minh thì báo cho BC1 biết.
Khoảng hơn 18 giờ ngày 12/12/2018 Nguyễn Tiến BC1 đến sân bay Tân Sơn Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh rồi gọi điện thoại cho bạn là chị Phan Đại Kim O, trú tại Chung cư Sài Gòn Pearl, số 92, đường Nguyễn Hữu Cảnh, Phường 22, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh để mượn xe ô tô, chị O đồng ý. BC1 đón xe ôm đến chung cư Sài Gòn Pearl nơi chị O ở, gặp bảo vệ lấy chìa khóa xe chị O gửi rồi lấy xe ô tô Mercedes – Benz màu trắng biển số 30A- 168.13 lái xe đến đường Cộng Hòa, quận Tân Bình thuê phòng khách sạn để nghỉ và chờ BC2.
Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 12/12/2018 BC2 đến sân bay Tân Sơn Nhất và gọi điện thoại cho BC1. BC1 cho BC2 biết số phòng và địa chỉ khách sạn nơi BC1 nghỉ và kêu BC2 đi xe ôm đến. BC2 đón xe ôm đến gặp BC1, sau đó cả hai đi ăn tối xong về khách sạn ngủ.
Khoảng 07 giờ sáng ngày 13/12/2018 BC1 và BC2 trả phòng và chuyển hành lý xuống xe Mercedes – Benz màu trắng biển số 30A-168.13. BC1 lái xe chở BC2 đến cửa khẩu Tho Mo, huyện Đức Huệ tỉnh Long An, gửi ô tô lại rồi cùng BC2 mang hành lý, đón xe ôm qua phía Campuchia bằng đường tiểu ngạch, sau đó cả hai tiếp tục đón xe Taxi đi Phnom Penh, Campuchia. Khoảng 14 giờ ngày 13/12/2018 cả hai đến Phnom Penh, BC1 thuê một phòng đôi trong khách sạn để BC1 và BC2 nghỉ. Khoảng 18 giờ cùng ngày cả hai đi ăn tối rồi về khách sạn. Lúc này BC2 nói với BC1 đi mua một ít trái cây về ăn nên BC1 đưa cho BC2 10 USD (Mười đô la Mỹ), BC2 đi mua trái cây xong đem về phòng khách sạn cả hai cùng ăn. Khi BC1 và BC2 ăn trái cây xong, BC2 thấy BC1 nói chuyện điện thoại rồi BC1 nói với BC2 “Sắp có hàng” và nói BC2 mang giúp về Việt Nam, BC2 biết BC1 sang Campuchia để lấy ma túy. Khoảng hơn 20 phút sau BC1 nghe điện thoại rồi đi xuống dưới mang lên phòng khách sạn 01 chiếc valy màu nâu và 01 túi xách màu vàng. BC1 mở Va ly và túi xách đó ra BC2 thấy bên trong chứa đầy các túi ny lon chứa các viên nén màu xanh và màu vàng, BC2 biết đó là thuốc lắc. BC1 nói BC2 mang về P, BC1 sẽ cho tiền, BC2 đồng ý. BC1 mở va ly màu xám của BC1 mang theo từ P và lấy ra một chiếc túi du lịch màu xanh, sau đó BC1 và BC2 cùng nhau xếp hết các túi ny lon chứa ma túy từ chiếc va ly màu nâu và túi xách màu vàng sang valy màu xám và túi xách màu xanh của BC1. Xếp xong BC1 khóa va ly màu xám và túi xách màu xanh lại bằng mã số rồi cả hai đi ngủ.
Khoảng 07 giờ ngày 14/12/2018 BC1 và BC2 trả phòng khách sạn rồi chuyển va ly và túi xách chứa ma túy xuống, đi xe Taxi về cửa khẩu Tho Mo, Long An rồi tiếp tục đi xe ôm qua biên giới về Việt Nam bằng đường tiểu ngạch. BC1 đến nơi gửi lấy xe ô tô, BC2 xếp valy màu xám và túi xách màu xanh chứa ma túy lên cốp xe ô tô, BC1 lái xe chở BC2 về Bến xe Miền Đông, quận B1, để BC2 đi xe khách mang ma túy về P. Đến Cổng số 1 Bến xe Miền Đông, BC1 vào mua vé xe khách Hoàng Long cho BC2 hết 880.000 đồng, mã vé F4UK81 Thành phố Hồ Chí Minh đi P, khởi hành lúc 18 giờ 30 phút ngày 14/12/2108 rồi BC1 đưa vé cho BC2. Do xe khách chưa đến giờ khởi hành nên BC1 và BC2 ngồi chờ, đến khoảng 17 giờ 50 phút cùng ngày gần đến giờ xe chạy nên BC1 nói với BC2 chuyển hành lý chứa ma túy từ xe ô tô Mercedes – Benz màu trắng biển số 30A-168.13 vào xe khách để BC1 về. Khi BC1 và BC2 đang bốc va ly màu xám và túi xách màu xanh chứa ma túy từ xe ô tô Mercedes – Benz màu trắng biển số 30A-168.13 xuống đất thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ vật chứng là 44.600,22 gam ma túy loại MDMA như đã nêu ở trên.
Quá trình điều tra Phạm Văn BC2 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên. Nguyễn Tiến BC1 khai nhận về diễn biến chi tiết chuyến đi, phù hợp với lời khai của BC2, theo đó mọi chi phí vé máy bay, vé xe, ăn uống, thuê khách sạn, thuê xe đi lại đều do BC1 chi trả. Tuy nhiên BC1 không thừa nhận số ma túy trên là của BC1, không nhờ BC2 vận chuyển.
Căn cứ vào lời khai của Phạm Văn BC2 và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, hình ảnh trích xuất từ Camera an ninh sân bay theo dõi quá trình di chuyển từ sân bay Cát Bi-P vào đến sân bay Tân Sơn Nhất-Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Tiến BC1 đều mang theo hành lý là chiếc va ly màu xám, cũng là vật chứng khi BC1 và BC2 bị bắt tại Bến xe Miền Đông, trong đó có chứa 44.600,22 gam ma túy loại MDMA. Nên mặc dù Nguyễn Tiến BC1 không thừa nhận hành vi vận chuyển số ma túy nói trên, vẫn có đủ căn cứ để kết luận Nguyễn Tiến BC1 và Phạm Văn BC2 vận chuyển trái phép 44.600,222 gam ma túy, loại MDMA (BL 17-22, 256-308, 346-386).
Đối với Phan Đại Kim O là người cho Nguyễn Tiến BC1 mượn chiếc xe ô tô hiệu Mercedes-Benz màu trắng, biển số 30A-168.13. Qua điều tra xác minh thể hiện: O là chủ sở hữu của chiếc xe trên, O không biết BC1 mượn xe làm phương tiện vận chuyển trái phép chất ma túy, nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Bộ Công an không xử lý đối với Ngọc trong vụ án này.
Đối với người mang ma túy đến cho BC1, vì BC1 không khai nhận, BC2 không biết người này, nên không có căn cứ để xác minh làm rõ.
Vật chứng của vụ án:
- Vật chứng niêm phong sau giám định (Ma túy và vân tay) thu giữ của Nguyễn Tiến BC1 và Phạm Văn BC2:
+ 01 (một) thùng cat-tong kích thước khoảng 42x25x30cm, được niêm phong sau giám định (về ma túy) ký hiệu vụ số 486/1/1 có chữ ký của Điều tra viên Bùi Minh H3, Giám định viên Bùi Thúy H4, Hồ Sơn L2 (cán bộ Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh), Phạm Văn BC2, Nguyễn Tiến BC1 (người bị bắt).
+ 01 (một) thùng cat-tong kích thước khoảng 50x30x30cm, được niêm phong sau giám định (về ma túy) ký hiệu vụ số 486/1/2 có chữ ký của Điều tra viên Bùi Minh H3, Giám định viên Bùi Thúy H4, Hồ Sơn L2 (cán bộ Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh), Phạm Văn BC2, Nguyễn Tiến BC1 (người bị bắt).
+ 01 (một) phong bì được niêm phong sau giám định (về ma túy) ký hiệu vụ số 779/1/C09B ngày 22/01/2019, có chữ ký của giám định viên Hà Thị Phước Hiền, điều tra viên Bùi Minh H3, người chứng kiến Bùi Thúy H4 (cán bộ Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh).
+ 01 (một) chiếc va ly màu xám kích thước khoảng 50x38x23(cm) (bên trong chứa 01 túi du lịch màu xanh và 127 túi ny lon), được niêm phong sau giám định (về đường vân) ký hiệu vụ số 486/C09B ngày 22/01/2019 có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Đức, điều tra viên Bùi Minh H3, người chứng kiến Đào Văn Chỉnh (cán bộ Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh).
+ 01 (một) phong bì niêm phong sau giám định (về đường vân) ký hiệu vụ số 779/1/C09B ngày 08/3/2019, có chữ ký của Giám định viên Võ Anh Đức, điều tra viên Bùi Minh H3, người chứng kiến Đào Văn Chỉnh (cán bộ Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh).
- Thu giữ của Phạm Văn BC2:
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng, không rõ số Imei, Model A1687 + 01 thẻ sim.
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, RM1190 + 02 thẻ sim, số imei: …69001.
+ 01 (một) giấy căn cước công dân mang tên Phạm Văn BC2 do Cục cảnh sát QLHC về TTXH cấp ngày 19/9/2017.
+ 01 (một) vé xe khách Hoàng Long số code F4UK81 ngày 14/12/2018 (kèm theo hồ sơ) - Thu giữ của Nguyễn Tiến BC1:
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng, không rõ số Imei + 01 thẻ sim.
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đen, TA 1030 + 02 thẻ sim.
+ 01 xe ô tô hiệu Mercedes-Benz E250 màu trắng, biển số 30A-168.13 và 01 giấy đăng ký xe 30A-168.13 mang tên Phan Đại Kim O do Công an thành phố Hà Nội cấp ngày 26/3/2014. Qua điều tra xác minh thể hiện chiếc xe ô tô và giấy tờ nêu trên là tài sản hợp pháp của chị Phan Đại Kim O, nên Cơ quan cảnh sát điều tra –Bộ Công an đã ra quyết định giao xe cho chị O quản lý, sử dụng và không được mua bán chuyển nhượng khi chưa có sự đồng ý của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền giải quyết vụ án.
Tại bản Cáo trạng số 67/CT-VKSTC-V4 ngày 26 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, đã truy tố bị cáo Nguyễn Tiến BC1 về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Truy tố bị cáo Phạm Văn BC2 về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 270/2020/HS-ST ngày 22/7/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
+ Căn cứ vào điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 250; điểm h khoản 1 Điều 52;
khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến BC1: tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 100.000.000 (một trăm triệu) đồng. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
+ Căn cứ vào điểm b khoản 4 khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Phạm Văn BC2 tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng.
+ Căn cứ vào điểm h khoản 3 Điều 249; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Phạm Văn BC2 10 (mười) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với hành vi phạm tội này.
+ Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo Phạm Văn BC2 phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là: tử hình. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng, tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra thuộc Bộ Công an tiếp tục điều tra hành vi của đối tượng có tên Nguyễn Đăng Z có liên quan đến việc tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo Phạm Văn BC2 theo như bị cáo BC2 khai tại phiên tòa, nếu có căn cứ thì xử lý sau.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 27/7/2020, bị cáo Nguyễn Tiến BC1 có đơn kháng cáo xin xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm vì mức án quá nặng, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử không đúng nội dung vụ án, hành vi của bị cáo.
Ngày 23/7/2020, bị cáo Phạm Văn BC2 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Tiến BC1 giữ nguyên kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại vụ án vì nội dung vụ án chưa đúng với hành vi phạm tội của bị cáo, mức án sơ thẩm là quá nặng.
Bị cáo Phạm Văn BC2 giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, không thừa nhận hành vi về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư Trương Thị Minh T4, Luật sư Nguyễn Thị K1 T5, Luật sư Trịnh Bá T3 cùng bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tiến BC1, thống nhất trình bày: Không đồng ý với nội dung cũng như mức hình phạt của bản án sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức độ phạm tội của bị cáo cũng như trong vụ án này có nhiều chứng cứ mâu thuẫn, quá trình điều tra, truy tố, xét xử có nhiều vi phạm tố tụng, cần hủy bản án sơ thẩm để điều tra xét xử lại, cụ thể:
+ Cán bộ lấy lời khai những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có tư cách tố tụng trong vụ án: Trong hồ sơ vụ án chỉ có 02 cán bộ điều tra được phân công điều tra là ông Tạ Hữu Lộc và ông Bùi Văn BC2 tuy nhiên các lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan lại do ông Lê Đình Hoàng lập biên bản.
+ Thời gian kết thúc việc khám xét giữa biên bản khám xét và thông báo khám xét của Cơ quan Cảnh sát điều tra thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân Tối cao có sự khác nhau.
+ Không thu thập chứng cứ hình ảnh bị cáo BC2 cầm vali màu xám tại sân bay, không có hình ảnh bị cáo BC1 cầm vali màu xám tại sân bay Cát Bi mà chỉ có hình ảnh bị cáo BC1 tại sân bay Tân Sơn Nhất là không khách quan, toàn diện.
+ Có dấu hiệu cho thấy bản cung của bị cáo BC2 đã được bỏ ra ngoài hồ sơ vụ án vì theo công văn số 66/C04-P8 ngày 20/3/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra gửi cho Viện kiểm sát nhân dân Tối cao có ghi: “Phạm Văn BC2 phản cung, khai không biết trong vali và túi xách của Nguyễn Tiến BC1 chứa ma túy”. Tuy nhiên trong hồ sơ các lời khai trước đó của bị cáo BC2 đều thừa nhận biết trong vali và túi xách có ma túy, không hề có căn cứ về việc bị cáo BC2 phản cung.
+ Có sự khác nhau giữa đối tượng thu giữ, yêu cầu giám định và đối tượng giao nhận để giám định. Tại biên bản khám xét thu giữ nhiều viên nén hình trụ dẹt, biên bản niêm phong cũng thể hiện viên nén hình trụ dẹt nhưng đối tượng được giao nhận để giám định là viên nén hình tròn.
+ Cơ quan điều tra đã không điều tra đến cùng 02 dấu vết đường vân trên vật chứng thu giữ tại nhà của BC2 là của ai, tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo BC2 đã khai nhờ một người tên Nguyễn Đăng Z đến lấy ma túy tuy nhiên trong hồ sơ không điều tra về đối tượng Nguyễn Đăng Z.
Ngoài ra, căn cứ buộc tội bị cáo BC1 mang tính chủ quan, định kiến và suy luận một chiều. Bản án sơ thẩm đã cáo buộc bị cáo BC1 vận chuyển trái phép ma túy từ Campuchia vào Việt Nam nhưng không có vân tay của BC1 trên vật chứng trực tiếp sử dụng để đựng ma túy là vali. Cơ quan điều tra căn cứ vào tin nhắn trên điện thoại để quy kết bị cáo có liên quan đến ma túy là mang tính chất chủ quan vì không ai xác nhận đó là ma túy và bị cáo có liên quan hay không. Bị cáo BC1 thừa nhận bị cáo sang Campuchia cùng BC2 tuy nhiên bị cáo chỉ đi cùng chứ không hề biết trong vali có ma túy, bị cáo chỉ biết khi bị bắt được công an thông báo. Bị cáo BC1 chi trả tiền vé máy bay ăn ở cho BC2 là do quan hệ quen biết tình cảm anh em từ trước đó. Bị cáo BC1 thừa nhận có trách nhiệm khi đi cùng BC2, trên xe thu giữ ma túy tuy nhiên bị cáo không được biết đó là ma túy nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức độ phạm tội của bị cáo.
Mặc dù không bào chữa cho bị cáo BC2, để đảm bảo vụ án được giải quyết một cách toàn diện, các luật sư cũng nêu lên các nội dung thiếu sót khác của cấp sơ thẩm: Cơ quan điều tra đã không điều tra đến cùng 02 dấu vết đường vân trên vật chứng thu giữ tại nhà của BC2 là của ai, không điều tra về đối tượng Nguyễn Đăng Z, dù tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo BC2 đã khai nhờ Ngọc đến lấy ma túy; hơn nữa có dấu hiệu cho thấy bản cung của bị cáo BC2 đã được bỏ ra ngoài hồ sơ vụ án.
Luật sư Đỗ Hải B bào chữa cho bị cáo Phạm Văn BC2 trình bày:
Bị cáo BC2 không phủ nhận việc đi sang Campuchia cùng BC1, tuy nhiên bị cáo BC2 không hề biết trong vali có ma túy, bị cáo BC1 nói với BC2 đó là thuốc kích dục nên BC2 tin tưởng. Đối với số ma túy thu tại nhà của bị cáo BC2, bị cáo không phải là người cất giữ ma túy tại nhà mà khi bị cáo không có nhà bị cáo BC1 nhờ cất hộ đồ nên có người tới nhà bị cáo cất trên tủ. Bị cáo BC2 không biết đó là ma túy. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm không xem xét trách nhiệm hình sự của bị cáo BC1 mà quy kết số ma túy này buộc bị cáo BC2 phải chịu trách nhiệm là chưa khách quan. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo BC2, hủy bản án sơ thẩm để điều tra bổ sung.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa tranh luận:
Sự thật trong vụ án này các bị cáo đã bị bắt quả tang khi đang vận chuyển ma túy từ Campuchia về bến xe Miền Đông, đây là chứng cứ quan trọng nhất. Những vấn đề mà các luật sư cho rằng là vi phạm tố tụng là không có và cũng không có chứng cứ chứng minh lời khai của bị cáo BC2 đã bị bỏ ra khỏi hồ sơ vụ án. Việc ai cầm vali từ P vào Thành phố Hồ Chí Minh không quan trọng vì thực tế các bị cáo đã vận chuyển ma túy từ Campuchia vào Việt Nam và bị bắt quả tang chứ không phải vận chuyển ma túy từ P vào Thành phố Hồ Chí Minh. Các hình ảnh thu giữ trong điện thoại của các bị cáo cũng chỉ là căn cứ để đánh giá vụ án chứ không phải chứng cứ trọng yếu. Trong vụ án này, các bị cáo quanh co chối tội, không thừa nhận hành vi của mình nhưng chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã đủ căn cứ xác định hành vi phạm tội của các bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Theo nội dung vụ án thì khoảng 17 giờ 50 phút ngày 14/12/2018, tại cổng số 1, bến xe Miền Đông, Phường 26, quận B1, Tổ công tác Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Bộ công an, phối hợp với các lực lượng chức năng phát hiện Nguyễn Tiến BC1 và Phạm Văn BC2 đang bốc dỡ, lấy hành lý gồm 01 vali màu xám và 01 túi du lịch màu xanh từ cốp sau xe ô tô đưa xuống đất. Qua kiểm tra bên trong có 28 túi nylon chứa nhiều viên nén hình tròn màu vàng nhạt và 99 túi nylon bên trong có nhiều viên nén hình tròn màu xanh có chứ LV. Qua giám định là ma túy, loại MDMA, tổng khối lượng 44.600,22 g.
Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 15/12/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra – Bộ công an khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn BC2 tại thôn Ngọc Khê, xã Phù Ninh, huyện C3, Thành phố P, thu giữ trên nóc tủ quần áo trong phòng ngủ 01 hộp giấy, bên trong có 01 túi nylon chưa nhiều viên nén màu xanh. Qua giám định là ma túy loại Methamphetamine, MDMA, tổng trọng lượng là 59,5980g.
Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến BC1 về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn BC2 về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 và điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[2] Xét kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Tiến BC1 và Phạm Văn BC2 kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại toàn bộ vụ án, theo đó bị cáo BC1 kêu oan về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, còn bị cáo BC2 kêu oan về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đồng thời bị cáo BC2 cho là mức án của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là quá nặng, đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra xét xử lại. Hội đồng xét xử xét thấy trong vụ án này có nhiều vấn đề cần được điều tra làm rõ cũng như có một số sai sót như:
[2.1]. Đối với hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy” của BC1 và BC2: Bản án sơ thẩm đã quy kết bị cáo BC1 là người chủ mưu, thuê bị cáo BC2 vận chuyển ma túy từ Campuchia về P do bị cáo BC1 là người mang chiếc vali màu xám từ sân bay Cát Bi và sân bay Tân Sơn Nhất, đây cũng là chiếc vali thu giữ khi bắt quả tang các bị cáo. Đồng thời, bị cáo BC1 là người rủ bị cáo BC2 sang Campuchia, trả mọi chi phí ăn uống, khách sạn cho bị cáo BC2, trong điện thoại của bị cáo BC2 có các tin nhắn và hình ảnh giống với hình ảnh các viên ma túy thu giữ khi bắt quả tang và tin nhắn thể hiện nội dung liên quan đến việc bị cáo có hoạt động ma túy, đồng thời căn cứ vào lời khai của bị cáo BC2 về việc được bị cáo BC1 thuê vận chuyển ma túy. Tuy nhiên, bị cáo BC1 không thừa nhận việc thuê bị cáo BC2 vận chuyển ma túy, bị cáo thừa nhận việc trả tiền vé, tiền ăn và tiền khách sạn cho bị cáo BC2 tuy nhiên đó là do quan hệ anh em từ trước đó, bị cáo không hề biết việc BC2 vận chuyển ma túy từ Campuchia về Việt Nam, vali màu xám là của bị cáo BC2, khi ở sân bay Cát Bi do bị cáo BC2 đi hãng Vietjet sợ phải đóng tiền hành lý nên nhờ bị cáo cầm vào giúp. Bị cáo BC2 khai bị cáo BC1 cùng bị cáo BC2 cùng chuyển ma túy từ các vali màu mâu và túi xách màu vàng sang vali xám và túi xách màu xanh tuy nhiên theo kết quả giám định không phát hiện dấu vân tay của bị cáo BC1, của bị cáo BC2 trên vali, túi xách và các bịch nylon chứa ma túy. Đồng thời tại bến xe Miền Đông khi bắt quả tang bị cáo BC1 không phải là người đang bỏ hành lý từ cốp xe xuống.
Do đó, cần điều tra xác định lại vai trò cụ thể của từng bị cáo trong việc vận chuyển ma túy từ Campuchia về Việt Nam để có thể giải quyết vụ án một cách toàn diện.
[2.2]. Về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của bị cáo BC2:
Tại biên bản khám xét chỗ ở của BC2 (bút lục số 29) ghi nhận: “bên trong túi nilong có nhiều viên nén hình trụ dẹt, xàu xanh dương…”. Tại biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 15/12/2018 (bút lục số 31) tại nhà bị cáo BC2 thể hiện: “bên trong túi nilong có nhiều viên nén hình trụ dẹt, màu xanh, đường kính mỗi viên nén khoảng 01cm, trên mặt dẹt của mỗi viên nén đều có ký hiệu VL…”, đồng thời tại quyết định trưng cầu giám định số 02/C04-P8 ngày 07/01/2019 đã yêu cầu giám định đối với “01 hộp các tông kích thước khoảng 14x8x4cm được niêm phong bên trong có chứa một túi nilong chứa nhiều viên nén hình trụ dẹt…” Tuy nhiên tại kết luận giám định số 779/C09B ngày 21/01/2019 của Phân viện Khoa học hình sự - Bộ công an tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “các viên nén tròn, màu xanh có chữ “V” và “L” lồng vào nhau…” Như vậy, có sự khác nhau giữa đồ vật được thu giữ và đối tượng trong kết luận giám định. Do đó, cần phải thực hiện việc giám định lại đối với tang vật được thu giữ là các viên nén hình trụ dẹt để có căn cứ giải quyết vụ án một cách khách quan.
Ngoài ra, Theo kết luận giám định số 779/1-C09B ngày 19/02/2019 (bút lục số 53-56) xác định phát hiện thu giữ 02 dấu vết đường vân tay đủ yếu tố giám định trên các mẫu vật gửi giám định, 02 dấu vết đường vân tay này không phải của BC2 và BC1 mà là của người khác. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo BC2 khai nhận khi bị cáo BC1 gọi điện thoại nhờ bị cáo lấy đồ giùm bị cáo không có nhà nên đã nhờ người quen là Nguyễn Đăng Z đến nhà BC1 lấy về để trên tủ giùm. Bị cáo BC1 không thừa nhận số ma túy ở nhà bị cáo BC2 là lấy từ nhà bị cáo, cũng không có dấu vân tay của bị cáo BC1 trên hộp đựng. Do đó, việc lấy lời khai, xác định dấu vân tay trên hộp các tông có phải của đối tượng Ngọc hay không là cần thiết để giải quyết vụ án một cách toàn diện.
[2.3] Ngoài ra có một số sai sót như sau:
- Tại Bút lục số 58 biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định, thời gian bắt đầu là 8 giờ 15 phút ngày 22/01/2019, tuy nhiên thời gian kết thúc hồi 08 giờ 30 ngày 22/01/2018.
- Tại thông báo về việc khám xét khẩn cấp số 322/C04-P8 ngày 15/12/2018 (bút lục số 36) có nội dung: Việc thi hành lệnh khám xét khẩn cấp số 67/C04-P8 ngày 14/12/2018 kết thúc vào hồi 11h30 ngày 15/12/2018. Lệnh khám xét khẩn cấp số 68/C04-P8 ngày 15/12/2018 kết thúc vào hồi 14 giờ 00 ngày 15/12/2018. Tuy nhiên, tại biên bản khám xét (bút lục số 33, 35) thì Lệnh khám xét khẩn cấp số 68/C04-P8 kết thúc hồi 11h30 và lệnh khám xét khẩn cấp số 67/C04-P8 kết thúc hồi 14h00.
- Tại quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2733/2020/HSST-QĐ ngày 27/5/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có tên Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là ông Nguyễn Hữu K2 (bút lục số 477-479). Tuy nhiên, ngày 10/6/2020 mới có quyết định thay đổi kiểm sát viên từ Kiểm sát viên Nguyễn Thị K1 sang Kiểm sát viên Nguyễn Hữu K2.
Những sai sót này không làm ảnh hưởng đến tính chất của vụ án nhưng các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm để đảm bảo quá trình tố tụng.
[2.4] Đối với ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tiến BC1 cho rằng cán bộ lấy lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án không có tư cách tố tụng là không có căn cứ vì trong hồ sơ đã có đầy đủ quyết định phân công điều tra, quyết định ủy thác điều tra (bút lục số 05, 208) Về ý kiến cho rằng lời khai của bị cáo BC2 đã được bỏ ra khỏi hồ sơ vụ án là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Các vấn đề cần được làm rõ cũng như những vấn đề sai sót trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử cấp sơ thẩm đã nêu ở trên là những vấn đề mà Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không thể bổ sung, sửa chữa trong quá trình xét xử phúc thẩm. Do đó, cần thiết phải hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo thẩm quyền.
[3] Về án phí:
Do Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355, điểm b khoản 1 Điều 358 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
Tuyên xử:
Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm 270/2020/HS-ST ngày 22/7/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Giao toàn bộ hồ sơ về cho Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết theo thẩm quyền.
Tiếp tục tạm giam các bị cáo Nguyễn Tiến BC1 và Phạm Văn BC2 theo quyết định của Hội đồng xét xử cho đến khi Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý lại hồ sơ vụ án.
Các bị cáo Nguyễn Tiến BC1 và Phạm Văn BC2 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 617/2022/HS-PT về tội tàng trữ và vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 617/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về