TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 526/2022/HS-PT NGÀY 25/07/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh L, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ L1 số 846/2019/TLPT- HS ngày 05/10/2021 đối với bị cáo Nguyễn Thiên L1 và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2021/HS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh L.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Thiên L1, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1990 tại huyện B, tỉnh H; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thôn B1, xã V, huyện B, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Trần Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2020/HS-ST ngày 20/8/2020 bị Tòa án nhân dân huyện V1, tỉnh L xử phạt 05 (năm) năm tù về tội Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 27/3/2020, tạm giam từ ngày 31/3/2020 đến nay; có mặt.
2. Dương Thị Hồng T, sinh ngày 27 tháng 02 năm 1977 tại huyện P, tỉnh T1; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Xóm Đ1, xã N, huyện P, tỉnh T1; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn C và bà Ngô Thị B2; có chồng là Nguyễn Văn H1 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 30/10/2020, tạm giam từ ngày 05/11/2020 đến nay; có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thiên L1: Bà Chu Thị Nguyễn P1, Luật sư Văn phòng luật sư N1 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh L; có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Dương Thị Hồng T:
- Ông Nguyễn Công G và Lưu Bình D – Văn phòng luật sư D1 và cộng sự thuộc Đoàn luật sư tỉnh T1. Có mặt.
- Luật sư Hoàng Thị Kim K – Văn phòng luật sư K1, thuộc Đoàn luật sư tỉnh L. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Năm 2018, Nguyễn Thiên L1 làm thuê tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc có quen biết với một người phụ nữ Việt Nam tên là N2. Khoảng giữa năm 2019, khi chuẩn bị về Việt Nam, Nguyễn Thiên L1 hỏi N2 về chỗ bán ma túy đá ở Việt Nam để Nguyễn Thiên L1 mua về sử dụng, N2 cho Nguyễn Thiên L1 biết là Dương Thị Hồng T có ma túy đá bán, đồng thời gửi tài khoản Zalo của Dương Thị Hồng T cho Nguyễn Thiên L1 kết bạn, sau đó Nguyễn Thiên L1 về Việt Nam liên lạc với Dương Thị Hồng T qua mạng xã hội Zalo để làm quen rồi đến xã N, huyện P, tỉnh T1 mua ma túy đá với Dương Thị Hồng T để sử dụng. Ngày 29/02/2020, Nguyễn Thiên L1 về Việt Nam qua đường L và bị cách ly dịch bệnh Covid - 19 tại Trung Đoàn 123 thuộc Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh L từ ngày 01/3/2020 đến ngày 15/3/2020. Sau khi hết thời gian cách ly, Nguyễn Thiên L1 về quê ở thôn B1, xã V, huyện B, tỉnh H. Ngày 21/3/2020, Ngọc có đặt vấn đề thuê Nguyễn Thiên L1 đến tỉnh H2 vận chuyển 01 khẩu súng K54 mang sang Trung Quốc cho N2 với tiền công là 10.000.000 đồng, Nguyễn Thiên L1 đồng ý. Ngọc nói với Nguyễn Thiên L1 là đã gửi số điện thoại của Nguyễn Thiên L1 cho người giao súng ở tỉnh H2. Sau đó, Nguyễn Thiên L1 đi xe Taxi đến tỉnh H2, trước khi đi Nguyễn Thiên L1 báo cho Ngọc biết chuẩn bị đi nhận súng. Khi Nguyễn Thiên L1 đi gần đến tỉnh H2 thì nhận được điện thoại của một người đàn ông bảo Nguyễn Thiên L1 đi đến gần Trạm thu phí trên Quốc lộ 5, thuộc địa phận tỉnh H2 để nhận súng, khi đến địa điểm hẹn, Nguyễn Thiên L1 được một người đàn ông giao cho một khẩu súng K54. Sau khi nhận được súng, đến tối cùng ngày Nguyễn Thiên L1 đi xe Taxi đến tỉnh C1 để tìm đường sang Trung Quốc nhưng không đi được.
Ngày 23/3/2020, Nguyễn Thiên L1 nhận được điện thoại của N2 qua mạng Zalo đặt vấn đề thuê Nguyễn Thiên L1 vận chuyển ma túy Heroine từ Việt Nam sang Trung Quốc, Ngọc sẽ trả tiền công cho Nguyễn Thiên L1 30.000.000 đồng/01 bánh ma túy, Nguyễn Thiên L1 đồng ý. N2 cho Nguyễn Thiên L1 biết Dương Thị Hồng T sẽ mang ma túy Heroine giao cho Nguyễn Thiên L1, Dương Thị Hồng T sẽ chủ động liên lạc với Nguyễn Thiên L1 để giao nhận ma túy. Để tìm đường sang Trung Quốc, Nguyễn Thiên L1 đã gọi điện hỏi chị Tưởng Thị C3 (Nguyễn Thiên L1 và chị Tưởng Thị C3 quen biết nhau trong thời gian cách ly ở Trung đoàn 123 Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh L), chị Tưởng Thị C3 cho Nguyễn Thiên L1 biết đang ở L và đang chuẩn bị sang Trung Quốc, Nguyễn Thiên L1 bảo chị Tưởng Thị C3 đợi để cùng đi. Sau đó, Nguyễn Thiên L1 báo cho Ngọc biết để Ngọc bảo Dương Thị Hồng T mang ma túy đến L giao cho Nguyễn Thiên L1, đồng thời Nguyễn Thiên L1 liên lạc với Dương Thị Hồng T qua mạng Zalo bảo Dương Thị Hồng T mang ma túy đến L. Sáng ngày 24/3/2020, Nguyễn Thiên L1 đi xe taxi từ C1 đến L, trên đường đi, Nguyễn Thiên L1 nhắn tin qua mạng Zalo bảo Dương Thị Hồng T mang ma túy đến khách sạn M1, thành phố L để giao cho Nguyễn Thiên L1. Trên đường đi, Nguyễn Thiên L1 vào nhà nghỉ 555 gần khu vực cửa khẩu T3, thuộc xã T3, huyện V1, tỉnh L để đón chị Tưởng Thị C3 đến khách sạn M1 chơi và cùng đi ăn cơm tối. Khoảng 19 giờ ngày 24/3/2020, chị Tưởng Thị C3 đi xe Taxi về nhà nghỉ 555, còn Nguyễn Thiên L1 ở lại khách sạn M1 để chờ nhận ma túy với Dương Thị Hồng T. Khoảng 21 giờ đến 22 giờ cùng ngày, Dương Thị Hồng T gọi điện qua mạng Zalo báo cho Nguyễn Thiên L1 biết là đang mang ma túy đến giao cho Nguyễn Thiên L1, khoảng 15 phút sau, Dương Thị Hồng T đi xe ô tô biển kiểm soát 30X - 9067 do Ngô Văn T4 điều khiển đến trước cổng khách sạn M1 đón Nguyễn Thiên L1 lên xe ô tô. Khi lên xe Nguyễn Thiên L1 ngồi tại ghế phụ phía trước, còn Dương Thị Hồng T ngồi phía sau, Nguyễn Thiên L1 bảo Dương Thị Hồng T đi đến cửa khẩu T3. Trên đường đi Nguyễn Thiên L1 đưa ba lô cho Dương Thị Hồng T, Dương Thị Hồng T lấy 12 bánh ma túy Heroine từ túi xách của mình cho vào ba lô của Nguyễn Thiên L1. Khi xe đi đến Nhà nghỉ 555 thì Dương Thị Hồng T đưa ba lô đựng ma túy cho Nguyễn Thiên L1 rồi cùng Ngô Văn T4 đi về, còn Nguyễn Thiên L1 xách ba lô đựng ma túy vào Nhà nghỉ 555 và lên phòng 503 gặp chị Tưởng Thị C3. Khoảng 00 giờ ngày 25/3/2020, khi Nguyễn Thiên L1 cùng với chị Tưởng Thị C3 và một số người khác đi xe Taxi đến khu vực thôn N4, xã T5, huyện V1, tỉnh L để xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc thì bị lực lượng Biên phòng kiểm tra, phát hiện và thu giữ 12 bánh ma túy Heroine và 01 khẩu súng K54 của Nguyễn Thiên L1 để trong cốp xe phía sau xe ô tô.
Khi bị lực lượng Biên phòng kiểm tra, thì Nguyễn Thiên L1 chạy trốn, sau đó Nguyễn Thiên L1 nhắn tin qua mạng Zalo nói cho Dương Thị Hồng T biết 12 bánh ma túy đã bị Bộ đội Biên phòng phát hiện thu giữ và bảo Dương Thị Hồng T đến đón, Dương Thị Hồng T nói sẽ cho người đến đón. Sáng ngày 25/3/2020, Nguyễn Thiên L1 gọi điện thoại vào số 0974.993.478 của Dương Thị Hồng T (do T gửi cho L1 trước đó) cho biết Nguyễn Thiên L1 đang trốn ở huyện V1, tỉnh L, Dương Thị Hồng T nói đang cho người đến đón Nguyễn Thiên L1. Sau khi nói chuyện với Nguyễn Thiên L1, Dương Thị Hồng T nhờ anh Tạ Đình M2 đi đón Nguyễn Thiên L1. Anh Tạ Đình M2 bảo Dương Thị Hồng T nhờ bạn của Tạ Đình M2 là anh Đặng Văn L1 đi đón, sau đó Dương Thị Hồng T bảo anh Đặng Văn L1 và Ngô Văn T4 cùng đi đón Nguyễn Thiên L1. Dương Thị Hồng T cho anh Đặng Văn L1 số điện thoại của Nguyễn Thiên L1 để liên lạc. Khoảng 11 giờ ngày 25/3/2020, Nguyễn Thiên L1 đang ở ngã tư M3, thành phố L thì nhận được điện thoại từ số 0929.398.870 của Đặng Văn L1 bảo đến đón, nhưng do Nguyễn Thiên L1 lo sợ vì bị mất ma túy nên không dám đi cùng Đặng Văn L1 và Ngô Văn T4 về T1. Sau đó Nguyễn Thiên L1 đi trốn tại tỉnh C1 và H3, đến ngày 27/3/2020 thì bị bắt giữ.
Tại bản kết luận giám định số 115/KL-PC09, ngày 28/3/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận: “12 (mười hai) bánh chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 4.101,280 gam.” Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2021/HS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2021, Tòa án nhân dân tỉnh L đã căn cứ:
- Điểm b khoản 4 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 40, Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 56 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thiên L1 tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Tổng hợp với hình phạt 05 (năm) năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2020/HS-ST ngày 20/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện V1, tỉnh L, buộc bị cáo Nguyễn Thiên L1 phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là Tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
- Điểm b khoản 4 Điều 250, Điều 40, Điều 17, Điều 50, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Dương Thị Hồng T tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử L1 vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định.
- Ngày 16/8/2021, bị cáo Nguyễn Thiên L1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
- Ngày 16/8/2021, bị cáo Dương Thị Hồng T kháng cáo với nội dung đề nghị xem lại tội danh và xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo Nguyễn Thiên L1 thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết, xin giảm hình phạt.
- Bị cáo Dương Thị Hồng T thừa nhận toàn bộ hành vi, diễn biến của vụ án nhưng không thừa nhận được giao ma túy cho bị cáo Nguyễn Thiên L1. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hủy án sơ thẩm để điều tra laị vì thực tế giữa bị cáo và bị cáo L1 là quan hệ tình cảm vì vậy có những lời khai bị cáo thừa nhận lời khai của L1 những lời khai này là do tình cảm cá nhân, còn việc bị cáo L1 khai bị cáo lấy 12 bánh ma túy Heroine từ túi xách của mình cho vào ba lô của Nguyễn Thiên L1 là không đúng, đó là các hộp cà phê và thịt nai khô.
- Đại diện Viện kiểm sát tham dự phiên tòa có quan điểm về vụ án như sau:
+ Đối với bị cáo Nguyễn Thiên L1 bị bắt phạm tội quả tang, kể từ khi bị bắt bị cáo đều tự khai nhận về hành vi phạm tội của mình và hành vi phạm tội của bị cáo T. Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo L1 là phù hợp với lời khai của chị Tưởng Thị C3, chị Đỗ Phương L2, Dương Thị N6 khai nhận về việc cùng bị cáo L1 vượt biên sang Trung Quốc và chiếc ba lô chứa ma túy là ba lô của bị cáo L1 và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
+ Đối với bị cáo Dương Thị Hồng T: khoảng 22h ngày 24/3/2020, T đi xe ô tô màu trắng đến cổng khách sạn M1, sau đó L1 lên xe ô tô của T, T hỏi L1 là ma túy để ở đâu, L1 đưa ba lô cho T để T cho ma túy vào trong ba lô của L1. Cơ quan điều tra đã tiến hành cho L1 nhận dạng và đã nhận T, ngay sau khi bị bắt truy nã tại Công an xã E, huyện C4, tỉnh Đ3 bị cáo khai nhận có gặp một người lạ mặt trong một quán cơm và đưa cho bị cáo một cái túi, bảo bị cáo đem lên khách sạn M1 thành phố L khắc có người ra lấy, mặc dù sau đó, khai gặp L1 vào tối ngày 24/3/2020 là do L1 rủ bị cáo sang Trung Quốc chơi, bị cáo chỉ đưa cho L1 thịt nai và cà phê, còn bị cáo không liên quan gì về số lượng ma túy bị bắt quả tang. Ngày 25/3/2020 bị cáo có cho người lên L đón L1 vì L1 bị lạc đường nhờ bị cáo lên đón. Ngoài ra còn có lời khai của anh Ngô Văn T4 khai không trực tiếp nghe thấy việc giao dịch ma túy giữa bị cáo T và bị cáo L1, nhưng anh Tăng thừa nhận việc bị cáo T thuê chở lên L vào tối ngày 24/3/2020 và sáng ngày 25/3/2020 như diễn biến nội dung vụ án đã nêu.
Từ các phân tích trên, có đủ căn cứ để kết luận: Đêm ngày 24/3/2020, Dương Thị Hồng T thực hiện hành vi vận chuyển 12 bánh ma túy Heroine (có tổng khối lượng 4.101,280 gam chất ma túy Heroine) từ tỉnh T1 mang lên thành phố L, tỉnh L để giao ma túy cho Nguyễn Thiên L1 để Nguyễn Thiên L1 vận chuyển cho đối tượng có tên là Ngọc sinh sống tại Trung Quốc. Việc giao ma túy được thực hiện trên xe ô tô biển kiểm soát 30X-9067 do Ngô Văn T4 điều khiển. Khi Nguyễn Thiên L1 đang vận chuyển 12 bánh ma túy Heroine đến khu vực thôn N4, xã T5, huyện V1, tỉnh L để xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc thì bị lực lượng Biên phòng kiểm tra, phát hiện và thu giữ số ma túy trên. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Thiên L1 và Dương Thị Hồng T về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Heroine có khối lượng 100 gam trở lên) là có căn cứ. Không oan, sai về hành vi phạm tội của các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2021/HS-ST ngày 12/8/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh L.
- Ý kiến người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thiên L1: Về tội danh và điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không tranh luận tuy nhiên mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là quá nghiêm khắc. Bị cáo thành khẩn khai báo giúp cơ quan điều tra làm sáng tỏ vụ án, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; nguyên nhân phạm tội không xuất phát từ bị cáo; vai trò của bị cáo là giúp sức thứ yếu; bị cáo chưa được hưởng lợi; bản thân bị cáo nhân thân tốt. Đề nghị Hội Đồng xét xử áp dụng điểm h khoản 4 Điều 250, điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Các luật sư bào chữa cho bị cáo Dương Thị Hồng T có kiến như sau:
+ Luật sư Nguyễn Công G và Lưu Bình D: Cơ quan điều tra đã vi phạm nghiêm trọng trong đánh giá chứng cứ. Bản án sơ thẩm không có nhận định nào khẳng định bị cáo Dương Thị Hồng T đã đưa 12 bánh ma túy vào balo cho bị cáo L1 trên xe ô tô của T5 ngoài lời khai duy nhất của bị cáo L1 trong khi bị cáo T không thừa nhận, anh T5 không xác nhận việc đưa ma túy. Tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên đã đẩy trách nhiệm chứng minh có tội, vô tội cho bị cáo là vi phạm nguyên tắc buộc tội và nguyên tắc công tố. Trong suốt quá trình tố tụng, Cơ quan điều tra đã có vi phạm pháp luật như: Bị cáo T bị khởi tố theo quy định tại khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt cao nhất là tử hình theo quy định phải bắt buộc chỉ định người bào chữa cho bị cáo; bị cáo T bị bắt ngày 30/10/2020 tại Đ3 sau đó áp giải về cơ quan điều tra đã hỏi cung bị cáo 6 lần không có luật sư; nhầm lẫn trong việc nhận dạng, biên bản nhân dạng qua ảnh không nêu đặc điểm nhận dạng, nhầm lẫn tên trong nhận dạng. nhận dạng người không có tên, không có địa chỉ, hoạt động nhận dạng không có Kiểm sát viên tham gia... Biên bản hỏi cung được lập trước khi khởi tố vụ án, điều tra viên tiến hành hỏi cung bị can không phải là điều tra viên được phân công tiến hành tố tụng, có nhiều chỗ hết trong trong biên bản hỏi cung không được bị can ký, các chỗ trống không được gạch bỏ, việc hỏi cung bị can không được ghi âm, ghi hình; vi phạm trong việc không thực hiện đối chất trong khi lời khai của bị cáo T và bị cáo L1 có nhiều mâu thuẫn; Quyết định phân công kiểm sát viên là bà Nguyễn Tuấn A1 trong khi Quyết định đưa vụ án ra xét xử có kiểm sát viên là ông Nguyễn Tuấn A1; theo quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử vụ án phải là 05 người, trong đó có 02 thẩm phán nhưng Quyết định đưa vụ án ra xét xử chỉ ghi có 01 thẩm phán. Hồ sơ vụ án còn vi phạm nghiêm trọng trong việc thu thập chứng cứ liên quan đến buộc tội bị cáo như: Bị cáo Dương Thị Hồng T tham gia vận chuyển từ đâu đến đâu, thời gian, địa điểm; nguồn gốc số ma túy có từ đâu, chưa làm rõ việc bị cáo T thuê anh Tăng đi một chiều hay hai chiều lên L, khi Tăng đón T đi L thì T mang theo những gì (có cafe và thịt nai khô không)... Bản án sơ thẩm kết tội bị cáo T về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy và tuyên mức hình phạt Tử hình là vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Đề nghị, trả toàn bộ hồ sơ cho Viện kiểm sát tỉnh L để điều tra bổ sung khắc phục các vi phạm tố tụng.
+ Bà Hoàng Thị Kim K bào chữa cho bị cáo Dương Thị Hồng T đồng tình với ý kiến của Luật sư Nguyễn Công G. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, trả hồ sơ để điều tra làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo Dương Thị Hồng T.
- Lời nói sau cùng của các bị cáo:
+ Bị cáo Nguyễn Thiên L1 trình bày hành vi của bị cáo bị xét xử là đúng người đúng tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
+ Bị cáo Dương Thị Hồng T trình bày bị cáo biết tới đâu đã khai tới đó, mong hội đồng xét xử xem xét chấp nhận quan điểm bào chữa của các Luật sư đã trình bày tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[2] Đơn kháng cáo của bị cáo bị cáo Nguyễn Thiên L1, Dương Thị Hồng T trong hạn luật định do đó được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[3] Về nội dung:
Căn cứ vào lời khai của bị cáo Nguyễn Thiên L1 tại phiên sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm cũng như các tài liệu điều tra có trong hồ sơ có đủ căn cứ cứ xác định đêm ngày 24/3/2020, Dương Thị Hồng T thực hiện hành vi vận chuyển 12 bánh ma túy Heroine (có tổng khối lượng 4.101,280 gam chất ma túy Heroine) từ tỉnh T1 mang lên thành phố L, tỉnh L giao ma túy cho Nguyễn Thiên L1 để Nguyễn Thiên L1 vận chuyển cho đối tượng có tên là Ngọc sinh sống tại Trung Quốc. Việc giao ma túy được thực hiện trên xe ô tô biển kiểm soát 30X - 9067 do Ngô Văn T4 điều khiển. Khi Nguyễn Thiên L1 đang vận chuyển 12 bánh ma túy Heroine đến khu vực thôn N4, xã T5, huyện V1, tỉnh L để xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc thì bị lực lượng Biên phòng kiểm tra, phát hiện và thu giữ số ma túy trên.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thiên L1: Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản L1 chất ma túy của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội; là nguyên nhân làm nảy sinh, gia tăng nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Mặc dù bị cáo L1 luôn luôn có thái độ khai báo thành khẩn, nhân thân tốt nhưng số lượng bị cáo vận chuyển 12 bánh ma túy Heroine là đặc biệt lớn. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo cũng không xuất trình được tình tiết đặc biệt nào mới để Hội đồng xét xử làm căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được.
[5] Xét kháng cáo của bị cáo Dương Thị Hồng T: Quá trình điều tra bị cáo L1 khai khoảng 22h ngày 24/3/2020, T đi xe ô tô màu trắng do 01 người đàn ông điều khiển đến trước cổng khách sạn M1, sau đó L1 lên xe ô tô của T, T hỏi L1 là ma túy để ở đâu, L1 đưa ba lô cho T để T cho ma túy vào trong ba lô; L1 khai chỉ biết T ở T1, còn địa chỉ cụ thể không biết. Cơ quan điều tra đã trích xuất và thu giữ Camera khu vực cổng khách sạn M1, hình ảnh Camera thể hiện bị cáo L1 đi từ trong khách sạn ra và lên xe ô tô màu trắng của T. Phù hợp với lời khai của bị cáo L1, đồng thời xác định được biển kiểm soát xe. Cơ quan điều tra đã xác định được lai lịch, địa chỉ cụ thể của bị cáo T và tiến hành cho bị cáo L1 nhận dạng, kết quả L1 đã nhận ra được Dương Thị Hồng T. Từ các chứng cứ nêu trên Cơ quan điều tra đã ra quyết định khởi tố bị can đối với Dương Thị Hồng T. Do không xác định được T đang ở đâu nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã đối với T. Ngày 30/10/2020, Công an xã E, huyện C4, tỉnh Đ3 đã bắt truy nã đối với T. Lời khai ban đầu của T sau khi bị bắt truy nã tại Công an xã E, huyện C4, tỉnh Đ3 bị cáo khai nhận có gặp một người lạ mặt trong một quán cơm và đưa cho bị cáo một cái túi, bảo bị cáo đem lên khách sạn M1 thành phố L khắc có người ra lấy. Tại Biên bản hỏi cung bị can ngày 03/11/2020, bị cáo T xác định Bản tường trình bị cáo viết tại Công an xã Ea H’Ding là do chính tay bị cáo viết nhưng nội dung thế nào bị cáo không nhớ. Tuy nhiên các bản khai sau đó, bị cáo chỉ khai nhận: Bị cáo gặp L1 vào tối ngày 24/3/2020 là do L1 rủ bị cáo sang Trung Quốc chơi, bị cáo chỉ đưa cho L1 thịt nai và cà phê, còn bị cáo không liên quan gì về số lượng ma túy bị bắt quả tang. N gày 25/3/2020 bị cáo có cho người lên L đón L1 vì L1 bị lạc đường nhờ bị cáo lên đón. Ngoài các chứng cứ nêu trên, thì lịch sử chi tiết cuộc gọi do Cơ quan điều tra thu thập thể hiện: Vào sáng ngày 25/3/2020, bị cáo Nguyễn Thiên L1 (sử dụng số thuê bao 0968830005) đã gọi cho bị cáo Dương Thị Hồng T (sử dụng số thuê bao 0974993478) tổng cộng 04 lần. Cũng trong sáng ngày 25/3/2020, bị cáo Dương Thị Hồng T (sử dụng số thuê bao 0974993478) gọi cho Đặng Văn L1 (sử dụng số thuê bao 0929398870). Sau đó, Đặng Văn L1 (sử dụng số thuê bao 0929398870) gọi cho bị cáo Nguyễn Thiên L1 (sử dụng số thuê bao 0968830005) 01 lần. Lịch sử chi tiết cuộc gọi nêu trên phù hợp với lời khai của bị cáo L1 và bị cáo T về quá trình liên lạc giữa các bị cáo vào sáng ngày 25/3/2020 khi bị cáo L1 đang bỏ trốn ngay sau khi bị Đồn Biên phòng bắt quả tang về hành vi vận chuyển ma túy. Ngoài ra còn có lời khai của anh Ngô Văn T4 khai không trực tiếp nghe thấy việc giao dịch ma túy giữa bị cáo T và bị cáo L1, nhưng anh Tăng thừa nhận việc bị cáo T thuê chở lên L vào tối ngày 24/3/2020 và sáng ngày 25/3/2020 như diễn biến nội dung vụ án.
Việc các luật sư cho rằng không có người bào chữa tham gia hỏi cung bị cáo Dương Thị Hồng T trong một số lần hỏi cung là thiếu sót. Tuy nhiên, trong vụ án này nội dung của bản cung có người bào chữa tham gia và nội dung của bản cung không có người bào chữa tham gia cơ bản đều giống nhau; Hội đồng xét xử không căn cứ vào nội dung của các bản cung người bào chữa không tham gia để làm căn cứ kết tội bị cáo nhưng Cơ quan Điều tra cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
- Việc đối chất giữa bị cáo Dương Thị Hồng T và bị cáo Nguyễn Thiên L1 là không thể thực hiện được vì bị cáo Nguyễn Thiên L1 từ chối không đối chất tại Cơ quan Điều tra. Tuy nhiên tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm được xét công khai và các bị cáo đã nhiều lần được đối chất, làm rõ hành vi phạm tội của từng bị cáo.
[5]. Xét hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản L1 chất ma túy của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội; là nguyên nhân làm nảy sinh, gia tăng nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, gây mất trật tự, an ninh chính trị tại địa phương. Các bị cáo đều là người có năng lực hành vi, đủ năng lực trách nhiệm hình sự; các bị cáo nhận thức được hành vi Vận chuyển trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do hám lợi nên vẫn cố ý thực hiện. Tòa án nhân dân tỉnh L xử phạt đối với các bị cáo về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan. Trước khi quyết định hình phạt tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét về nhân thân của các bị cáo như các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thiên L1 đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân và đồng phạm; tại phiên tòa tỏ ra ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo Dương Thị Hồng T không thành khẩn khai báo nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét khối lượng ma túy 4.101,280 gam Heroine các bị cáo đã vận chuyển trái phép là đặc biệt lớn, ảnh hưởng rất xấu đến đời sống xã hội nên cần xử phạt các bị cáo mức án cao nhất của khung hình phạt như Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định.
[6]. Các tình tiết mà bị cáo cũng như luật sư bào chữa cho các bị cáo nêu ra tại phiên tòa phúc thẩm đều là những tình tiết đã được xem xét tại phiên tòa sơ thẩm. Trong quá trình giải quyết vụ án theo trình phúc thẩm cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo, người bào chữa của bị cáo không đưa ra thêm được những chứng cứ tình tiết đặc biệt nào mới để xem xét. Do đó Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên, Căn cứ vào Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH
1. Không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thiên L1, Dương Thị Hồng T; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2021/HS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh L, cụ thể như sau:
Căn cứ vào điểm b khoản 4 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 40, Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Thiên L1;
Căn cứ vào điểm b khoản 4 Điều 250, Điều 40, Điều 17, Điều 50, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Dương Thị Hồng T;
Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 106, khoản 1 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản L1 và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1.1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thiên L1, Dương Thị Hồng T phạm tội Vận chuyển trái phép chất ma túy.
1.2. Về hình phạt:
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thiên L1: Tử hình. Tổng hợp với hình phạt 05 (năm) năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2020/HS-ST ngày 20/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện V1, tỉnh L, buộc bị cáo Nguyễn Thiên L1 phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là Tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
- Xử phạt bị cáo Dương Thị Hồng T: Tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
2. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Thiên L1, Dương Thị Hồng T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, Các bị cáo Nguyễn Thiên L1, Dương Thị Hồng T được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước./
Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 526/2022/HS-PT
Số hiệu: | 526/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về