Bản án 52/2017/HNGĐ-ST ngày 28/09/2017 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG
 
BẢN ÁN 06/2016/HNGĐ-ST NGÀY 01/02/2016 VỀ XIN LY HÔN
 
Ngày 28 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 94/TLST-HNGĐ ngày 10/4/2017 về việc: “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:
 
- Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Hồng H. Sinh năm: 1987.
 
Địa chỉ: Khu phố x, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
 
- Bị đơn: Anh Hồ Quốc H. Sinh năm: 1983.
 
Địa chỉ: Số xxx thôn A, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
 
(Chị H có mặt tại phiên tòa, anh H vắng mặt)
 
NỘI DUNG VỤ ÁN
 
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai chị Hồ Thị Hồng H trình bày:
 
Chị H và anh Hồ Quốc H kết hôn vào năm 2015, trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Cuộc sống chung của vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến cuối năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, không thông cảm chia sẻ với nhau trong cuộc sống hàng ngày, sau khi sảy ra mâu thuẫn vợ chồng chị đã nhiều lần trao đổi, tìm tiếng nói chung và để hàn gắn tình cảm nhưng không được. Chị và anh H cũng đã sống ly thân được một thời gian, trong thời gian sống ly thân tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được.
 
Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.
 
Về con chung: Chị H xác định vợ chồng chị có 01 con chung là Hồ Phi H, sinh ngày 25/02/2015. Khi ly hôn, chị H yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung.
 
Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định chị và anh H không có tài sản chung cũng như nợ chung nên chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
 
Kèm theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn chị Hồ Thị Hồng H đã nộp các tài liệu chứng cứ gồm: 01 Bản chính giấy chứng nhận kết hôn, 02 bản sao giấy khai sinh, 01 sổ hộ khẩu photocopy. Ngoài ra chị H không nộp bất cứ tài liệu chứng cứ nào khác.
 
Bị đơn anh Hồ Quốc H đã được Tòa án niêm yết thông báo thụ lý, giấy triệu tập, thông báo tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải, thông báo kết quả phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, anh H không đến Tòa án làm việc và cũng không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
 
Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải.
 
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh H.
 
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
 
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
 
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Hồ Quốc H đã được Tòa án niêm yết, triệu tập hợp lệ nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt anh H là phù hợp.
 
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hồ Thị Hồng H và anh Hồ Quốc H xây dựng gia đình với nhau năm 2015 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 08/5/2015. Cuộc sống chung của vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến cuối năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng không hợp nhau, không thông cảm chia sẻ với nhau trong cuộc sống hàng ngày. Anh, chị đã tìm mọi biện pháp để cải thiện tình cảm nhưng không được nên đã sống ly thân được một khoảng thời gian. Tại phiên tòa hôm nay, chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn. Còn anh H vắng mặt tại phiên tòa và không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu của nguyên đơn. Xét thấy, chị H và anh H đã sống ly thân với thời gian hơn 01 năm nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được do mâu thuẫn đã trầm trọng, kéo dài. Mặt khác, anh H cũng không có thiện chí để cải thiện quan hệ hôn nhân, trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh H nhưng anh H đều vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải được.Vì vậy, nếu kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện nay cũng không mang lại hạnh phúc cho các đương sự. Xét mâu thuẫn giữa vợ chồng chị H và anh H đã kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Hồ Thị Hồng H, xử cho chị Hồ Thị Hồng H và anh Hồ Quốc H được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.
 
[3] Về con chung: Chị Hồ Thị Hồng H và anh Hồ Quốc H có một con chung là Hồ Phi H, sinh ngày 25/02/2015, hiện nay cháu H đang ở với chị H. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, chị Hồ Thị Hồng H yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu H hiện nay chưa đủ 36 tháng tuổi nên rất cần sự quan tâm, nuôi dưỡng và chăm sóc của người mẹ. Hơn nữa, từ khi chị H và anh H sống ly thân đến nay cháu H vẫn do chị H nuôi dưỡng. Vì vậy, căn cứ Điều 81 luật hôn nhân và gia đình, giao con chung là Hồ Phi H cho chị Hồ Thị Hồng H có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hồ Quốc H không phải cấp dưỡng nuôi con.
 
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định vợ chồng không có nợ chung cũng như tài sản chung nên không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giải quyết, còn anh Hồ Quốc H không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu của nguyên đơn. Vì vậy, hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét, giải quyết về phần tài sản chung và nợ chung của vợ chồng chị H, anh H. Nếu sau này các bên đương sự có tranh chấp về vấn đề tài sản và có yêu cầu thì sẽ xem xét bằng một vụ kiện dân sự khác.
 
[5] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc chị Hồ Thị Hồng H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn.
 
Vì các lẽ trên,
 
QUYẾT ĐỊNH
 
- Căn cứ Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
 
- Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 203 và Điều 266; Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
 
- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
 
 Xử:
 
1/ Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Hồ Thị Hồng H, xử cho chị Hồ Thị Hồng H và anh Hồ Quốc H được ly hôn.
 
2/ Về con chung: Giao con chung là Hồ Phi H, sinh ngày 25/02/2015 cho chị Hồ Thị Hồng H trực tiếp, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hồ Quốc H không phải cấp dưỡng nuôi con.
 
Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
 
3/ Về án phí: Chị Hồ Thị Hồng H phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2015/0002769 ngày 10/4/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, chị Hồ Thị Hồng H đã nộp đủ án phí.
 
Chị Hồ Thị Hồng H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày từ ngày (28/9/2017). Anh Hồ Quốc H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
 
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

462
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 52/2017/HNGĐ-ST ngày 28/09/2017 về xin ly hôn

Số hiệu:52/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;