Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 26/07/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 45/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 26 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 145/2018/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2018 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Y, sinh năm: 1979

Địa chỉ: Số 16, đường Y, Phường K, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị đơn: Ông Trần Văn D, sinh năm: 1969

Địa chỉ: Số 01Bis, đường N, Phường A, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

(Bà Y và ông D đều có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của nguyên đơn và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì:

Bà Vũ Thị Y và ông Trần Văn D đăng ký kết hôn vào năm 2011 tại Ủy ban nhân dân Phường A, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Hôn nhân tự nguyện, không tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn, vỡ chồng sinh sống số 01 bis, đường N, thành phố Đ tỉnh Lâm Đồng sinh sống. Cuộc sống vợ chồng ngay từ khi mới kết hôn đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do không cùng quan điểm sống; không hiểu nhau, từ đó vợ chồng thường xuyên cãi nhau về kinh tế và việc nuôi dạy con. Hiện nay, vợ chồng đã sống ly thân. Do bà Y nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Văn D.

- Về con chung: Bà Y xác định vợ chồng có 02 con chung là Trần Thị Yến Nh, sinh ngày 19/01/2012 và Trần Vũ D, sinh ngày 13/7/2013. Hiện nay con gái Trần Thị Yến Nh đang ở với mẹ; con trai Trần Vũ D đang ở với bố. Ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con cháu Nh cho đến tuổi trưởng thành; không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con. Giao cho ông D chăm sóc, nuôi dưỡng cháu D cho đến tuổi trưởng thành.

- Về tài sản chung: Bà Y tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết - Về nợ chung: Bà Y xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản tự khai của bị đơn và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thì:

Ông Trần Văn D và bà Vũ Thị Y kết hôn vào năm 2011, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới nhỏ. Sau khi k ết hôn, vợ chồng sống tại thành phố Đ. Cuộc sống chung đôi lúc có mâu thuẫn. Ngày 04 tết âm lịch do bà Y lấy tấm hình của mẹ ruột ông đánh vào đầu gây thương tích cho ông , nên em trai ông đã đuổi bà Y ra khỏi nhà. Nay, bà Y xin ly hôn thì ông chưa đồng ý vì mẹ ruột ông mới chết chưa đủ trăm ngày, ông còn mang tang mẹ.

- Về con chung: Ông D xác định vợ chồng có 02 con chung gồm: Trần Thị Yến N, sinh năm 2012 và Trần Vũ D , sinh năm 2013. Nếu ly hôn ông yêu cầu được nuôi hai con chung, không yêu cầu bà Y cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Ông D xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án không tiến hành hòa giải được do ông D có đơn xin vắng mặt.

Tại phiên tòa, bà Vũ Thị Y vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông Trần Văn D, đồng thời yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Trần Thị Yến Nh cho đến tuổi trưởng thành; không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

Ông Trần Văn D cũng đồng ý ly hôn và yêu cầu được trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng 01 con chung cho đến tuổi trưởng hành; không yêu cầu bà Y cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án là đúng theo quy định của pháp luật.

Đối với nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Vũ Thị Y; giao cho bà Vũ Thị Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Trần Thị Yến Nh, sinh ngày 19/01/2012 cho đến tuổi trưởng thành; giao con chung là Trẩn Vũ D cho ông Trần văn D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành, các bên không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về nội dung vụ án: Bà Vũ Thị Y và ông Trần Văn D đăng ký kết hôn vào năm 2011, tại Ủy ban nhân dân Phường A, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; hôn nhân tự nguyện. Vợ chồng sống với nhau hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm; không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, hiện nay bà Y và ông D đã sống ly thân. Tại phiên tòa, ông D cũng đồng ý ly hôn; điều kiện hàn gắn tình cảm là khó có thể thực hiện; mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Y, cho bà Y được ly hôn với ông D là phù hợp.

[2] Về con chung: Bà Y và ông D xác định vợ chồng có 02 con chung là Trần Thị Yến Nh, sinh ngày 19/01/2012 và Trần Vũ D, sinh ngày 13/7/2013. Ly hôn, bà Y yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Trần Thị Yến Nh cho đến tuổi trưởng thành; ông D yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 01 con chung cho đến tuổi trưởng thành. Xét theo yêu cầu và sự thống nhất của các bên nên giao Trần Thị Yến Nh cho bà Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành; giao cháu D cho ông D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành là phù hợp.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Do các bên đương sự không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử sơ thẩm không xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Bà Y và ông D không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[5] Về nợ chung: Bà Y và ông D xác định không có, nên Hội đồng xét xử sơ thẩm không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bà Vũ Thị Y phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51; 53; 54; 56 và 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Xin ly hôn” của bà Vũ Thị Y. Bà Vũ Thị Y và ông Trần Văn D được ly hôn với nhau.

Về con chung: Giao cho bà Vũ Thị Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Trần Thị Yến Nh, sinh ngày 19/01/2013 cho đến tuổi thành niên. Giao cho ông Trần Văn D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Trần Vũ D, sinh ngày 13/7/2013 cho đến tuổi thành niên.

Việc quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, cấp dưỡng nuôi con và thăm nom con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Về án phí: Bà Vũ Thị Y phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) bà Y đã tạm nộp theo biên lai thu số 0007836 ngày 20 tháng 3năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ. Bà Y đã nộp đủ.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. /.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 26/07/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:45/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;