TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 213/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2018 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 20 tháng 9 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 165/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2018 về việc Xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2018/QĐXX-ST ngày 14 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T - Sinh năm 1975. Địa chỉ: Tiểu khu X, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La, có mặt.
2. Bị đơn: Anh Đinh Văn V - Sinh năm 1975. Địa chỉ: Tiểu khu X, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La.
Hiện đang chấp hành án tại Đội S, phân trại số V, trại giam Y, huyện P, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1940. Địa chỉ: Tiểu khu X, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn ngày 14 tháng 5 năm 2018 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày.
Chị và anh Việt kết hôn với nhau vào ngày 08/6/1998. Khi kết hôn hai anh chị đã đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La.
Cuộc sống chung vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2003 thì anh V ( sa vào tệ nạn xã hội) nghiện hút chất ma túy, đã phải đi chấp hành án nhiều lần (lần một anh V đi chấp hành án từ năm 2003 đến tháng 01 năm 2008 thì được trở về đến tháng 11/2008 lại bị bắt tiếp về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đi chấp hành tiếp đến tháng 06/2012 chấp hành xong trở về thì đến tháng 12/2012 lại bị bắt tiếp về tội tàng trữ trái phép chất ma túy). Hiện đang chấp hành án tại Đội S, phân trại số V, trại giam Y, huyện P, tỉnh Sơn La.
Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị T viết đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Việt.
Về con chung có 02 cháu.
Cháu thứ nhất Đinh Huyền T – Sinh ngày 24/9/1999.
Cháu thứ hai Đinh Quang S – Sinh ngày 20/7/2002.
Trường hợp ly hôn, chị T xin được nuôi cả hai cháu và không yêu cầu anh V đóng tiền cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Có 01 nhà 02 gian, cấp 4 lợp P rô xi măng, nằm trên diện tích đất của bà Nguyễn Thị N (Mẹ đẻ chị T) cho mượn tại tiểu khu X, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La. Nguyện vọng chị xin được sử dụng căn nhà.
Về vay nợ chung: Không có.
Bị đơn anh Đinh Văn V trình bày:
Anh hoàn toàn nhất trí với phần trình bày của chị T về thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn, con chung, tài sản chung, nợ chung, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng. Nay chị T xin ly hôn với anh, anh không nhất trí vì anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn.
Anh có ý kiến đề nghị do thời gian anh chấp hành hình phạt đến tháng 9 là xong, do vậy anh đề nghị sau khi anh chấp hành xong hình phạt trở về thì mới giải quyết.
Về tài sản chung anh khai có 01 nhà 02 gian, cấp 4 nằm trên diện tích đất của bà Nguyễn Thị N (Mẹ đẻ chị T) cho vợ chồng anh tại tiểu khu X, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La. Anh yêu cầu chia theo luật.
Về vay nợ chung: Không có.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N trình bày.
Bà là mẹ đẻ của chị T, sau khi chị T kết hôn với anh V, do vợ chồng phải đi thuê nhà ở nên vợ chồng bà cho chị T, anh V mượn một mảnh đất của vợ chồng bà để làm nhà ở (Chồng bà N hiện đã chết).
Nay chị T và anh V ly hôn với nhau tôi đề nghị chị T và anh V trả lại cho tôi diện tích đất tôi đã cho mượn.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu phát biểu ý kiến như sau:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký: Từ khi Tòa án tiến hành thụ lý vụ án cho đến khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện các thủ tục tố tụng theo đúng quy định pháp luật.
- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử tham gia đúng thành phần như trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, các trình tự của phiên tòa sơ thẩm diễn ra theo đúng quy định của pháp luật.
- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án cụ thể như sau:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; 58; 59; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 2, 4 Điều 147; khoản 3 Điều 157; khoản 2 Điều 165; Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào điểm a, b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Xử cho chị Nguyễn Thị T và anh Đinh Văn V được ly hôn.
2. Về con chung: Giao cháu Đinh Quang S – Sinh ngày 20/7/2002 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp chăm sóc, giáo dục đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi. Do chị T không yêu cầu anh Việt đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung, nên không đề cập việc giải quyết.
3. Về tài sản chung: Giao cho chị T được quyền sử dụng 01 nhà 02 gian, cấp 4, 01 nhà bếp mái lợp Prô xi măng và nhà vệ sinh, công trình phụ trị giá 33.339.294đ. Và tạm giao cho chị T sử dụng diện tích đất 50,45m2 của bà Nguyễn Thị N cho mượn có các vị trí tiếp giáp như sau.
Phía Bắc giáp với đường xóm đi khu dân cư.
Phía Nam giáp với đất tập thể Tiểu khu C, thị trấn N, huyện M.
Phía Đông giáp với đất ông K.
Phía Tây giáp với đất tập thể Tiểu khu X, thị trấn N, huyện M và giáp với đất ông H Buộc chị Nguyễn Thị T phải thanh toán giá trị tài sản chênh lệch cho anh Đinh Văn V là 16.669.624 đồng (Mười sáu triệu, sáu trăm sáu chín nghìn, sáu trăm hai bốn đồng).
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Chị Nguyễn Thị T và anh Đinh Văn V phải chịu án phí tranh cấp tài sản theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Đinh Văn V đang chấp hành án tại Đội S, phân trại số V, trại giam Y, huyện P, tỉnh Sơn La nên không thể có mặt tại Tòa án để tham gia, xét xử vụ án, anh Việt có ý kiến đề nghị sau khi anh chấp hành án trở về, anh sẽ tham gia giải quyết.
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T anh Đinh Văn V có đăng ký kết hôn ngày 08/6/1998 tại UBND thị trấn N, huyện M.
Việc kết hôn của hai anh chị đã tuân thủ các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, do đó được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Nguyên nhân dẫn đến việc chị T xin ly hôn là do anh Việt nghiện chất ma túy, mặc dù đã đi tập trung cải tạo nhiều lần nhưng vẫn không sửa chữa dẫn đến việc chị T có đơn khởi kiện xin ly hôn với anh Việt.
Việc anh Việt đề nghị để anh chấp hành xong hình phạt về anh sẽ tham gia giải quyết vụ kiện, việc anh đề nghị chị T không nhất trí. Xét yêu cầu của anh là không có căn cứ. Do đó Tòa án vẫn giải quyết vụ kiện theo quy định của pháp luật.
Xét thấy mâu thuẫn của vợ chồng anh, chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T và xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Đinh Văn V.
[3] Về con chung: Cả hai anh chị đều xác định có hai cháu là Đinh Huyền T – Sinh ngày 24/9/1999, Đinh Quang S – Sinh ngày 20/7/2002.
Do cháu T đã đủ tuổi trưởng thành nên không đề cập việc giao người trực tiếp nuôi con, còn cháu Đinh Quang S xét thấy cần giao cho chị Nguyễn Thị T nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp.
Về đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn: Do chị Nguyễn Thị T không yêu cầu anh V góp tiền cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn, nên không đề cập việc giải quyết.
[4] Về tài sản chung:
Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản ngày 16/7/2018 thì vợ chồng anh chị có 01 nhà 02 gian lợp P rô xi măng, cấp 4 đưa vào sử dụng năm 2008, có kích thước 5,25 x 6,3 m, diện tích 33,075m 2, trị giá còn lại là 33.339.249 đồng.
01 nhà bếp mái lợp P rô xi măng đưa vào sử dụng năm 2008, diện tích 14,175m 2, trị giá còn lại 0 đồng.
Nhà vệ sinh, công trình phụ đưa vào sử dụng năm 2008, diện tích 3,2m2 trị giá còn lại 0 đồng.
Ngôi nhà nằm trên diện tích đất của bà Nguyễn Thị N cho mượn là 50,45 m2 tại tiểu khu X, thị trấn N. Đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do ngôi nhà nằm trên đất của bà Nguyễn Thị N cho mượn, do đó cần giao cho chị T sử dụng và chị T có trách nhiệm thanh toán ½ giá trị tài sản chênh lệch cho anh V. Đồng thời chị T phải có trách nhiệm trả lại diện tích đất bà N cho mượn khi bà N có nhu cầu lấy lại.
Về nợ chung hai bên đều xác định không có nên không đề cập việc giải quyết.
[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Chị T và anh V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần giá trị tài sản được hưởng theo khoản 2 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; 58; 59; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 2, 4 Điều 147; khoản 3 Điều 157; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Xử cho chị Nguyễn Thị T và anh Đinh Văn V được ly hôn.
2. Về con chung: Giao cháu Đinh Quang S – Sinh ngày 20/7/2002 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.
Không ai được cản trở quyền trông nom, thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn.
3. Về tài sản chung.
Giao cho chị Nguyễn Thị T được sử dụng 01 nhà 02 gian, cấp 4, 01 nhà bếp mái lợp Prô xi măng, nhà vệ sinh, công trình phụ trị giá là 33.339.249đ và tạm giao cho chị Nguyễn Thị T sử dụng diện tích đất 50,45 m2 của bà Nguyễn Thị N cho mượn tại tiểu khu X, thị trấn N. Đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Có vị trí tiếp giáp như sau.
Phía Bắc giáp với đường xóm đi khu dân cư. Phía Nam giáp với đất tập thể Tiểu khu C, thị trấn N, huyện M. Phía Đông giáp với đất ông K. Phía Tây giáp với đất tập thể Tiểu khu X, thị trấn N, huyện M và giáp với đất ông H.
Buộc chị Nguyễn Thị T phải thanh toán giá trị tài sản chênh lệch cho anh Đinh Văn V là 16.669.624 đồng (Mười sáu triệu, sáu trăm sáu chín nghìn, sáu trăm hai bốn đồng).
Chị Nguyễn Thị T phải có trách nhiệm trả lại diện tích đất 50,45 m2 của bà Nguyễn Thị N cho mượn tại tiểu khu X, thị trấn N khi bà Nguyễn Thị N có nhu cầu lấy lại.
4. Về án phí:
Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0000622 ngày 18/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
Chị Nguyễn Thị T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với giá trị tài sản được hưởng là 833.000đ (Tám trăm, ba mươi ba nghìn đồng) nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La Anh Đinh Văn V phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với giá trị tài sản được hưởng là 833.000đ (Tám trăm, ba mươi ba nghìn đồng) nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La Nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
“Trường hợp bản án được thi hành án quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền: thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.”.
Bản án 213/2018/HNGĐ-ST ngày 20/09/2018 về xin ly hôn
Số hiệu: | 213/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/09/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về