Bản án 42/2018/HS-ST ngày 07/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BB, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 42/2018/HS-ST NGÀY 07/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B B, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 25/2018/TLHS-ST ngày 17 tháng 4 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2018/QĐ-HPT ngày 21/5/2018 đối với bị cáo

Họ và tên: Tô Văn Ph, sinh 15/9/1999, tại tỉnh Bình Thuận; Hộ khẩu thường trú: Thôn B, thị trấn S, huyện BB, tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú hiện nay: Thôn B, thị trấn S, huyện BB, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa: lớp 8/12; dân tộc: Chăm; giới tính: Nam; Tôn giáo: bà la môn; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông (không rõ cha), con bà Tô Thị Kim C; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; nhân thân bị cáo ngày 07/12/2015 bị Tòa án nhân dân huyện B B xử phạt 02 năm tù về tội “cướp tài sản”; bị bắt tạm giam từ ngày 09/3/2018 đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Người bị hại: 1/ Nguyễn Văn G, sinh năm 1995 (vắng mặt)

Cư trú: Thôn H, xã B, huyện BB, tỉnh Bình Thuận.

2/Trần Quang L, sinh năm 1988 (vắng mặt)

Cư trú: Thôn S, xã T, huyện BB, Bình Thuận

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Tô Thị Kim C, sinh năm 1971 (có mặt)

Trú tại: Thôn B, thị trấn S, huyện BB, tỉnh Bình Thuận.

Người làm chứng: 1/Lê Thanh C, sinh năm 1986 (vắng mặt)

2/Phùng Thanh D, sinh năm 1987 (vắng mặt)

Cùng cư trú: Thôn 1, xã L, huyện BB, Bình Thuận.

3/Trần Văn S, sinh năm 1979 (có mặt)

Cư trú: Khu phố T, thị trấn S, huyện BB, Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 03 giờ sáng ngày 10/10/2017, Tô Văn Ph là công nhân làm chung công ty với Nguyễn Văn G. Ph nhìn thấy G đang ngủ và có để phía trên đầu nằm 01 điện thoại di động hiệu OPPO F3, màu đen đang sạc pin, Pháp đi đến rút dây sạc pin ra và lấy điện thoại di động của G chơi game; khoảng 30 phút sau, Ph nghĩ không ai nhìn thấy Ph lấy điện thoại di động nên bỏ vào túi quần của Ph, rồi đi làm việc bình thường. Khoảng 05 giờ sáng ngày 10/10/2017, G thức dậy, phát hiện mất điện thoại di động hiệu OPPO F3, nên G hỏi Ph “Có thấy điện thoại di động của G đâu không”, Ph trả lời:Em không biết” và làm việc đến 07 giờ ngày 10/10/2017 thì tan ca về nhà ở thôn B, thị trấn S. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày 10/10/2017 Tô Văn Ph đem điện thoại di động hiệu OPPO F3 vừa trộm cắp được đến tiệm cầm đồ U ở khu phố T, thị trấn S và khai tên Đường Lê Hồng Kh cầm thế chiếc điện thoại di động hiệu OPPO F3 với giá 3.000.000 đồng cho chủ tiệm Trần Văn S. Sau khi nhận được tiền, Ph đã tiêu xài hết.

Lần 2: Tối ngày 23/11/2017, Tô Văn Ph chạy xe lên Bình T chơi nhìn thấy garage Thảo Th có chiếc xe ô tô tải biển số 49X- 4657 của Trần Quang L đậu trong garage nên có ý định trộm cắp. Khoảng 03 giờ sáng ngày 24/11/2017, Tô Văn Ph điều khiển xe mô tô biển số 86B2- 384.16 chạy lên garage Thảo Th dừng xe mô tô cách garage khoảng 50m, để xe mô tô sát lề đường Quốc lộ 1A và mở cốp xe mô tô lấy các khóa mở ốc vít 10,12,13,14 rồi đi bộ đến chỗ đậu xe ô tô tải biển số 49X- 4657; Tô Văn Ph dùng khóa 13 mở các ốc vít bắt dây điện vào 02 cái bình ắc quy hiệu Đồng Nai, loại 100 ampe, màu trắng đang để trên xe ô tô tải và rút dây điện ra, dùng 02 tay lần lượt nhấc 02 bình ắc quy đặt xuống đất, mở các nắp trên bình ắc quy và đổ hết nước axít trong bình ắc quy ra ngoài, lấy các khóa mở ốc vít cất vào lại cốp xe mô tô biển số 86B2- 384.16, dự định chở đi nhưng do 02 bình ắc quy quá nặng, xe mô tô của Tô Văn Ph không chở được nên Ph dự định điều khiển xe mô tô chạy về thị trấn S để gọi xe ba gác đến chở 02 bình ắc quy thì bị Lê Thanh C và Phùng Thanh D phát hiện bắt giữ Ph cùng tang vật, đưa đến Công an xã T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 57/2017/HĐĐG-TTHS ngày 24/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện BB, kết luận:

- Điện thoại di động hiệu OPPO F3, màu đen, số Imei: 865251033197859, mua vào tháng 9/2017; Đơn giá: 6.990.000 đồng/cái; số lượng: 01 cái; tỷ lệ sử dụng còn lại: 70%. Thành tiền: 4.893.000 đồng (Bốn triệu tám trăm chín mươi ba ngàn đồng)

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 67/2017/HĐĐG-TTHS ngày 01/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B B, kết luận:

- Bình ắc quy hiệu Đồng Nai, loại 100 ampe, màu trắng, mua đầu năm 2017; Đơn giá: 1.950.000 đồng/cái; số lượng 02 cái; tỷ lệ sử dụng còn lại: 60%. Thành tiền: 2.340.000 đồng (Hai triệu, ba trăm bốn mươi ngàn đồng)

Tổng giá trị tài sản mà Tô Văn Ph trộm cắp là: 7.233.000 đồng (Bảy triệu hai trăm ba mươi ba nghìn đồng).

Tang vật chứng vụ án: + Chiếc điện thoại OPPO F3 và 02 bình ắc quy hiệu Đồng Nai, loại 100 ampe, màu trắng đã được thu hồi và cơ quan điều tra đã giao trả lại cho các chủ sở hữu.

+01 (Một) xe mô tô biển số 86B2- 384.16, loại Sirius, bên trong cốp xe có 04 khóa mở ốc vít, gồm: Khóa 10, 12,13 và 14 chuyển kho chi cục thi hành án dân sự huyện B B ngày 17/4/2018

Tại cáo trạng số 26/CT -VKSBB ngày 17/4/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình truy tố bị cáo Tô Văn Pháp về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

Tại phiên tòa đại diện VKS thực hành quyền công tố sau khi phân tích hành vi tính chất phạm tội giữ nguyên truy tố bị cáo Tô Văn Ph theo tội danh và điều, khoản mà Viện kiểm sát truy tố, áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52; tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Tô Văn Ph từ 15-18 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”.Hình phạt bổ sung: không.

Xử lý tang vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: 04 khóa mở ốc vít, gồm: Khóa 10, 12, 13 là công cụ phương tiện phạm tội đề nghị tịch thu tiêu hủy. 01 (Một) xe mô tô biển số 86B2- 384.16, loại Sirius không liên quan vụ án đề nghị trả lại cho bị cáo Tô Văn Ph

Trách nhiệm dân sự: Các bị hại Nguyễn Văn G và Trần Quang L đã nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo Tô Văn Ph bồi thường gì thêm nên không xem xét.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Tô Thị Kim C đã trả lại cho Trần Văn S 3.000.000đ do S không biết tài sản do Tô Văn Ph trộm cắp cầm thế. Bà C không yêu cầu Tô Văn Ph trả lại cho bà 3.000.000đ nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, sau khi đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện BB công bố bản cáo trạng, Tô Văn Ph đã thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng nêu và đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại Trần Quang L ngày 18/01/2017 và lời khai Nguyễn Văn G ngày 11/3/2018 có trong hồ sơ, lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Tô Thị Kim C tại phiên tòa cũng như lời khai người làm chứng Phùng Thanh D ngày 18/01/2018 và Lê Thanh C ngày 15/3/2018, biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 24/11/2017, kết luận định giá số 57 ngày 24 tháng 10 năm 2017, kết luận định giá số 67 ngày 01/12/2017 và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của Tô Văn Ph 02 lần lén lút lấy trộm chiếc điện thoại của Nguyễn Văn G trị giá 4.893.000đ và hai cái bình ắc qui của Trần Quang L trị giá 2.340.000đ đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 183 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 nay áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo nên VKS truy tố áp dụng khoản 1 Điều 173 được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo là có căn cứ.

[2] Bị cáo lợi dụng sơ hở của các bị hại để tài sản không người trông coi nên đã lén lút lấy trộm. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà không phải lao động chân chính đã thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo thực hiện hành vi trộm ngay khi cả trong công ty nơi bị cáo đang làm việc gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo đã từng bị xử phạt về hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng không từ bỏ tính tham lam đã thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Vì vậy, cần xử bị cáo mức án nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm giúp bị cáo học tập cải tạo bản thân và cũng như răn đe phòng ngừa tội phạm khác.

[3] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Tô Văn Ph đã thành khẩn khai báo, bị hại Nguyễn Văn G có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo. Xét thấy, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[4] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về áp dụng điều luật, tội danh, mức hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng như biện pháp tư pháp đối với bị cáo Tô Văn Ph là phù hợp nghĩ nên chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Văn G và Trần Quang L và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Tô Thị Kim C không yêu cầu bị cáo Tô Văn Ph bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét trách nhiệm dân sự.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với xe máy biển số 86B2 384.16 loại SIRIUS không phải là phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo Tô Văn Ph; 04 (Bốn) cây khóa mở ốc vít 10, 12, 13 và 14 là công cụ phạm tội không có giá trị (đã chuyển kho Chi cục thi hành án dân sự huyện B B ngày 17/4/2018) nên tịch tiêu hủy theo quy định tại điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

[7] Về án phí: Bị cáo Tô Văn Ph phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH của UBTVQH 2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; Điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106; Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm a Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Tô Văn Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Tuyên phạt: Bị cáo Tô Văn Ph 15 (Mười lăm) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 09/3/2018.

Tịch thu: 04 (Bốn) cây khóa mở ốc vít 10, 12, 13 và 14 tiêu hủy (đã chuyển kho Chi cục thi hành án dân sự huyện BB ngày 17/4/2018)

Trả lại: 01 (Một) chiếc xe máy biển số 86B2 384.16 loại SIRIUS cho bị cáo Tô Văn Ph (đã chuyển kho Chi cục thi hành án dân sự huyện BB ngày 17/4/2018)

Buộc Bị cáo Tô Văn Ph phải nộp 200.000đ tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai có mặt bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2018/HS-ST ngày 07/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:42/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;