TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 37/2023/HS-ST NGÀY 03/08/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 03 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2023/TLST-HS ngày 11 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2023/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
Thạch V, sinh ngày 10/10/1982, tại tỉnh T. Nơi cư trú: ấp T, xã H, huyện T, tỉnh T; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Khmer; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; con ông Thạch T (chết) và bà Thạch Thị V, sinh ngày 01/01/1949; tiền án: Không; tiền sự: không; bị cáo có vợ tên Thạch Thị Kim H, sinh năm 1979; con có 02 người, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2002; bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 14/4/2023 cho đến nay, bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
Bị hại:
Thạch Chane T, sinh năm 1998 (có mặt). Nơi cư trú: Ấp B, xã L, huyện C, tỉnh T. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ Bùi Văn Th, sinh năm 1996 (vắng mặt) (có đơn xin xét xử vắng mặt). Nơi cư trú: khóm Z, phường X, thành phố T, tỉnh T 2/ Bùi Văn N, sinh năm 1998 (vắng mặt) (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Nơi cư trú: khóm Z, phường X, thành phố T, tỉnh T.
3/ Trần R, sinh năm 1999 (vắng mặt) (có đơn xin xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh T.
Người làm chứng:
1/ Thạch Thị L, sinh năm 1976 (vắng mặt).
Nơi cư trú khóm Z, phường X, thành phố T, tỉnh T.
2/ Huỳnh Trúc P, sinh năm 1989 (vắng mặt). Nơi cư trú: ấp M xã P, huyện T, tỉnh T.
Người phiên dịch: Ông Thạch Đa Ra, sinh năm 1980 (có mặt).
Nơi công tác: Đảng ủy phường A, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 21/01/2023 (nhằm ngày 30 tết Nguyên Đán 2023), bị cáo Thạch V đến nhà em ruột của bị cáo là Thạch Thị Sa V, sinh ngày 06/7/1986 tại khóm Z, phường X, thành phố T, tỉnh T để thăm mẹ của bị cáo là bà Thạch Thị V, sinh năm 1949. Khi đến nơi, bị cáo thấy nhà của anh ruột là ông Thạch K, sinh năm 1972 đang tổ chức ăn tết ở khoảng đất trống đối diện nhà bà Sa V, gồm có ông K; Trần R, sinh ngày 23/12/1999, cư trú tại ấp H, xã H, huyện C, tỉnh T; Huỳnh Trúc P, sinh ngày 06/4/1989, cư trú tại ấp M, xã P, huyện T, tỉnh Tiền Giang; Thạch Chane Thi, sinh ngày 20/01/1998, cư trú tại ấp B, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh; Bùi Văn Th, sinh ngày 07/01/1996 và Bùi Văn N, sinh ngày 12/3/1998, cùng cư trú tại khóm Z phường X, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Ông K kêu bị cáo vô ngồi chung, nhưng do uống bia không được nên bị cáo chỉ uống nửa ly bia rồi tự đi mua rượu và ngồi uống một mình trên cái giường đặt ở hàng ba nhà bà Sa V.
Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, con rể của bà Sa V là anh Võ Minh Đ đi làm thuê tại thành phố Hồ Chí Minh về, từ ngoài cổng đi vào. Khi đi ngang bàn nhậu, anh Bùi Văn Th cho rằng anh Võ Minh Đ không chào hỏi mình nên dùng tay phải đánh vào mặt của anh Đ 02 cái. Thấy vậy, bị cáo mới đứng dậy xô anh Bùi Văn Th ra thì anh Bùi Văn Th xông vào định đánh bị cáo nên mọi người can ngăn và anh Thạch Chane T dùng tay ôm, kéo bị cáo vào nhà của bà Sa V. Lợi dụng lúc này, anh Bùi Văn Th xông tới dùng tay (không rõ tay nào) đấm vào má trái của bị cáo khoảng 02 - 03 cái thì anh Huỳnh Trúc P và anh Bùi Văn N can ngăn và đẩy anh Bùi Văn T đi về nhà. Khi anh Thạch Chane T kéo bị cáo vào nhà của bà Sa V, bị cáo gỡ tay của anh Thạch Chane T ra và hỏi “Mày ôm tao lại cho thằng Th đánh tao hả?”, anh Thạch Chane T không trả lời mà bỏ đi ra và khép cửa lại. Sau đó, bị cáo mở cửa bước ra, dùng tay chỉ vào mặt của anh Bùi Văn N và chửi thề “tụi mày đánh tao?” nên bị anh Bùi Văn N dùng tay phải đánh vào trán trái của bị cáo 02 cái. Bị cáo liền cầm lấy cái chén mà bị cáo đựng thức ăn để trên cái giường ở hàng ba nhà bà Sa V chọi về phía anh Bùi Văn N nhưng không trúng rồi bị cáo chạy lại khu vực nhà bếp của bà Sa V lấy cây dao dài 34cm; cán bằng gỗ tròn; lưỡi dao bằng kim loại, một cạnh sắc, một cạnh tà, mũi dao bằng chạy ra định chém anh Bùi Văn N. Thấy bị cáo cầm dao, anh Bùi Văn i nhặt lấy nửa miếng gạch tàu có sẵn ở trên sân rồi cầm trên hai tay chọi trúng trán trái của bị cáo 01 cái. Lúc này, anh Thạch Chane T mới chạy tới xô, đẩy bị cáo té ngã xuống đất với mục đích không cho bị cáo chém anh Bùi Văn N nhưng anh Thạch Chane T bị mất đà nên cũng bị té theo bị cáo. Bị cáo đứng dậy trước rồi cầm cây dao trên tay phải chém nhiều nhát, từ trên xuống vào người của anh Thạch Chane T gây thương tích ở cẳng tay trái, cổ tay phải và vùng ngực. Bị chém, anh Thạch Chane T mới dùng hai tay ôm, quật bị cáo ngã xuống đất, thấy vậy anh Bùi Văn N chạy tới giữ chặt tay bị cáo đang cầm dao, không cho bị cáo chém anh Thạch Chane T tiếp. Sau đó, vợ của ông Thạch K là bà Thạch Thị L, sinh ngày 01/01/1976 đi ra kêu bị cáo đưa cây dao để bà L đem cất, rồi sau đó giao nộp cho lực lượng Công an. Riêng anh Thạch Chane T được đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh cấp cứu, điều trị.
Đến ngày 08 tháng 02 năm 2023, anh Thạch Chane T làm đơn yêu cầu Công an khởi tố vụ án hình sự.
Tại giấy chứng nhận thương tích số: 67/CNTT-BVĐKTV ngày 15/02/2023 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh chứng nhận tình trạng thương tích lúc vào viện của Thạch Chane T gồm có: 2 vết thương cẳng tay (T) khoảng 6cm và 3cm; vết thương N2 Tay (T) khoảng 3cm; vết thương cổ tay (P) khoảng 1cm; vết thương N5 tay (P) khoảng 1cm; vết thương xây xát da ngực (T) khoảng 15cm.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 74/23/TgT ngày 24 tháng 02 năm 2023 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Trà Vinh kết luận: Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định Pháp y, giám định Pháp y tâm thần, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Thạch Chane T là: 11% (Mười một phần trăm).
Cơ chế hình thành vết thương trên người của nạn nhân Thạch Chane T là do ngoại lực tác động trực tiếp. Vật gây ra thương tích trên là: Vật cứng có cạnh sắc. Hướng từ trên xuống.
Tại Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số:
144/2023/KLTTCT-TTPY ngày 19 tháng 4 năm 2023 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Trà Vinh kết luận: Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân Thạch V tại thời điểm giám định là: 0% (Không phần trăm). Cơ chế hình thành vết thương trên người của nạn nhân Thạch V là: Do ngoại lực tác động trực tiếp. Vật gây ra thương tích trên là: Vật tày cứng.
Về vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh thu giữ: 01 (môt) cây dao không có nhãn hiệu có chiều dài 34cm. Trong đó: cán bằng gỗ tròn có đường kính 2,5cm, dài 11cm; lưỡi dao bằng kim loại có một cạnh bén, một cạnh tà, mũi dao bằng, bản rộng giữa thân dao 5,5cm, trên mũi dao có 01 lỗ tròn đường kính 01cm, trên cạnh bén của lưỡi dao có 01 vết móp biến dạng. Cây dao đã qua sử dụng.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Thạch Chane T yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền là 9.000.000 đồng (chín triệu đồng). Bị cáo đã khắc phục xong. Anh Thạch Chane T không yêu cầu gì khác.
Đối với Bùi Văn N: Có hành vi dùng tay đánh và dùng gạch chọi bị cáo Thạch V nhưng qua giám định không có thương tích nên không xử lý hình sự. Công an thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh xử phạt vi phạm hành chính đối với Bùi Văn N số tiền 6.500.000 đồng (sáu triệu năm trăm nghìn đồng).
Đối với anh Bùi Văn Th: Qua trình bày của bị cáo có dùng tay đánh bị cáo nhưng không gây thương tích, đồng thời khi vụ án xảy ra đến nay, anh Bùi Văn Th đi làm thuê không rõ địa chỉ, không có mặt ở địa phương nên không làm việc được, do đó không đủ căn cứ xử lý đối với Bùi Văn Th.
Tại bản cáo trạng số: 33/CT-VKS-HS ngày 10/7/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố Thạch V về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Thạch V phạm tội “Cố ý gây thương tích” như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và nhân thân của bị cáo. Vị đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Thạch V từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Đồng thời đề nghị xử lý tang vật chứng và buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Thạch V đã khai nhận: Vào khoảng 15 giờ ngày 21/01/2023 bị cáo Thạch V đang ngồi uống rượu một mình trên cái gường ở hàng ba nhà bà Sa V, thì nhìn thấy anh Bùi Văn T dùng tay đánh vào mặt anh Võ Minh Điền (cháu rể) nên đến can ngăn xô anh Thi ra, thì được anh Thạch Chane Th dùng tay ôm bị cáo lại kéo vào trong nhà, thấy vậy anh Bùi Văn Th xông vào dùng tay đấm vào má trái bị cáo 02-03 cái nhưng được mọi người can ngăn. Bị cáo liền chạy vào khu vực nhà bếp của bà Sa V lấy cây dao bằng kim loại chạy ra định chém anh Bùi Văn N, nhưng bị anh N nhặt lấy nửa miếng gạch tàu chọi trúng vào tráng trái của bị cáo. Lúc này anh Thạch Chane Th chạy tới tiếp tục can ngăn xô đẩy bị cáo té ngã xuống đất nhưng do bị mất đà anh Chane Th cũng té theo bị cáo, bị cáo liền đứng lên dùng dao chém nhiều nhát vào người anh Thạch Chane Th dẫn đến gây thương tích với tỷ lệ thương tật là 11% (mười một phần trăm).
Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và tang vật chứng đã thu giữ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Thạch V đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Xét thấy Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Thạch V về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.
[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác, chỉ vì muốn bênh vực cho cháu là anh Võ Minh Đ mà mâu thuẩn với nhiều người dẫn đến bị cáo dùng dao là hung khí nguy hiểm chém vào người anh Thạch Chane T dẫn đến tổn hại thương tật là 11%. Hành vi của bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự địa phương. Do đó, cần xử lý nghiêm đối với bị cáo để nhằm răn đe phòng ngừa chung.
Tuy nhiên; khi phạm tội bị cáo chưa tiền án, tiền sự; đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 9.000.000 đồng (chín triệu đồng) và tại phiên tòa hôm nay bị hại anh Thạch Chane Th xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nghĩ nên xem đây là những tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Thạch Chane Th không có yêu cầu, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Bùi Văn T, anh Bùi Văn N, anh Trần Rô không có yêu cầu, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
[6] Về vật chứng: 01 cây dao không có nhãn hiệu có chiều dài 34cm. Trong đó: cán bằng gỗ tròn có đường kính 2,5cm, dài 11cm, lưỡi dao bằng kim loại có một cạnh bén, một cạnh tà, mũi dao bằng, bản rộng giữa thân dao 5,5cm, trên mũi dao có 01 lỗ tròn đường kính 01cm, trên cạnh bén của lưỡi dao có 01 vết móp biến dạng. Cây dao đã qua sử dụng. Nghĩ nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Thạch V phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Thạch V 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Thạch Chane Th không có yêu cầu, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Bùi Văn T, anh Bùi Văn N, anh Trần R không có yêu cầu, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
Căn cứ: Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 cây dao không có nhãn hiệu có chiều dài 34cm. Trong đó: cán bằng gỗ tròn có đường kính 2,5cm, dài 11cm, lưỡi dao bằng kim loại có một cạnh bén, một cạnh tà, mũi dao bằng, bản rộng giữa thân dao 5,5cm, trên mũi dao có 01 lỗ tròn đường kính 01cm, trên cạnh bén của lưỡi dao có 01 vết móp biến dạng. Cây dao đã qua sử dụng.
Căn cứ: Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Thạch Vết nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án sơ thẩm xử công khai; báo cho bị cáo; bị hại biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 37/2023/HS-ST về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 37/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/08/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về