Bản án 36/2022/HS-ST về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THỦY, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 36/2022/HS-ST NGÀY 24/09/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 24 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2022/TLST- HS, ngày 30 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2022, đối với bị cáo:

Bùi Văn L, sinh ngày 12 tháng 8 năm 1991, tại xã H, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm Rộc, xã H, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Ch và bà Nguyễn Thị T; bị cáo có vợ là Bùi Thị Phấn và có 01 con; T án, T sự: Không; Nhân thân: Ngày 10/3/2020 đánh bạc bị Công an xã Hữu L xử phạt vi phạm hành chính số T 1.000.000 đồng. Ngày 24/8/2020 L đã nộp phạt theo quy định, nay bị cáo đã được xóa vi phạm; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/5/2022 đến ngày 03/6/2022. Hiện đang chấp hành lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú số: 29/2022/HSST-LCĐKNCT ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy (có mặt tại phiên tòa) Bị hại:

1/ Anh Quách Văn T, sinh năm 1997 (có mặt tại phiên tòa)

2/ Anh Quách Văn S, sinh năm 1999 (có mặt tại phiên tòa) Cùng trú tại: xóm Rộc, xã H, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình

*Người có quyền Lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Đinh Văn Th, sinh năm 1969; trú tại: xóm Vố Dấp, xã Hữu L, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình (có mặt).

Ngưi làm chứng:

1/ Anh Quách Văn H1, sinh năm 1986 (vắng mặt)

2/ Anh Quách Văn H2, sinh năm 1983 (vắng mặt)

3/ Anh Đinh Mạnh H3, sinh năm 1980 (vắng mặt) Cùng trú tại: xóm Rộc, xã H, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình.

4/ Anh Bùi Văn T1, sinh năm 1980 (vắng mặt)

5/ Anh Đinh Văn Th, sinh năm 1969 (có mặt) Cùng trú tại: xóm Vố Dấp, xã H, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 10/5/2022 Bùi Văn L và anh Quách Văn H đi đến quán bi a nhà ông Đinh Văn Th để chơi. Khi đến nơi L và anh H có gặp anh Quách Văn H1, Quách Văn T, Quách Văn S và anh Bùi Văn Tình đang chơi bi a. Sau đó, L và anh Hoàng có rủ nhau chơi bi a, tuy nhiên S có cầm viên bi a lên quấy và không cho L và Hoàng chơi. Do đó, giữa L và S có xảy ra mâu thuẫn thách đố đánh nhau. Do không kiềm chế được L đã dùng tay trái đấm một nhát vào lưng và 01 nhát vào phần sau đầu của S. Lúc này, T thấy S bị đánh nên đã lao vào định đánh L, do được mọi người can ngăn nên T không đánh được L, sau đó được mọi người khuyên đi về nên L đi ra phía trước cửa hàng tạp hóa nhà ông Th để tránh mặt T và S. Khi L ra đến khu vực bán hàng tạp hoá thì thấy trên mặt kính của quầy hàng có một cái kéo. Lúc này L nghĩ nếu như bị S và T đuổi theo đánh thì sẽ sử dụng chiếc kéo này để đánh lại. Tại sân trước cửa hàng L gặp anh Đinh Văn Hùng người cùng xóm Rộc đang nằm võng ở đây nên đến nói chuyện với Hùng. Khoảng 1 phút sau khi L đang nói chuyện với Hùng thì bị S đi từ trong khu vực bàn bi a ra và cầm ghế nhựa màu đỏ kích thước 27cm x 47cm x 30cm ở sân ném về phía L nhưng không trúng, ngay sau đó T đi sau cầm một vỏ chai bia bằng thuỷ tinh loại 750ml nhãn hiệu Hà Nội bằng tay phải chạy đến vung lên đánh một nhát trúng phần đuôi lông mày mắt phải làm rách da chảy máu. Do bị đánh nên L bực tức chạy lại quầy bán hàng nhà ông Th lấy 01 chiếc kéo bằng kim loại (đã quan sát thấy khi đi ra) dài 20,5cm, cán bằng nhựa màu đỏ rộng 7cm, hai lưỡi kép bằng kim loại dài 10cm, đầu lưỡi kéo nhọn mục đích quay lại đánh gây thương tích cho T và S. Thấy L chạy lại phía quầy hàng thì T đuổi theo để đánh, tuy nhiên khi đuổi đến cách quầy hàng khoảng 2m thì bị L cầm kéo bằng tay trái quay lại đâm một nhát từ trái qua phải, từ trước ra sau trúng vào phần ngực dưới vú phải của S (khi L đâm S có ông Th đứng chắn giữa che khuất tầm nhìn, L đâm với sang phía S, L không nhằm vào vị trí cụ thể nào trên cơ thể của S). Đâm xong L thấy T đang đứng phía ngoài đường liên xã nên cầm kéo chạy ra để đánh. Thấy L cầm kéo chạy về phía mình thì T bỏ chạy theo đường ngách giữa nhà văn hoá xóm Vố Dấp và nhà ông Th rồi chạy xuống ruộng lúa phía sau nhà ông Th. Chạy trong ruộng lúa một đoạn thì T bị ngã nằm úp mặt xuống ruộng. Lúc này L đuổi tới nơi tay trái cầm kéo vung lên đâm liên tiếp một nhát trúng vào mông phải T, một nhát trúng vào mặt sau đùi phải của T, bị đâm hai nhát thì T lật người quay lại về phía L thì L cầm kéo vung lên đâm tiếp một nhát từ trên xuống dưới trúng vào mặt trước đùi chân phải của T. Khi dùng kéo đâm T thì L có nói với T “Sao mày lại ăn hôi với thằng S đánh tao” rồi bắt T xin lỗi mình rồi mới thôi. Sau khi bị L đâm ba nhát thì T mới nói lời xin lỗi nên L không đánh nữa và rìu T đứng dậy và đi về. Tuy nhiên, khi rìu được một đoạn, do T mệt và mất máu nhiều nên đã khuỵ ngã xuống ruộng. Lúc này L không dìu được T nữa nên đã chạy đến nhà ông Th và nói với mọi người việc mình vừa đâm T bị thương ở ruộng lúa đồng thời nhờ người xuống đưa T đi cấp cứu còn L đi đến Công an xã Hữu L để đầu thú về hành vi phạm tội trên của mình.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 83/TgT ngày 19/5/2022 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Hòa Bình kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại cho Quách Văn T là 13% (mười ba phần trăm). Đặc điểm vật gây thương tích: Vật sắc, nhọn.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 84/TgT ngày 19/5/2022 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Hòa Bình kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại cho Quách Văn S là 07% (Bẩy phần trăm). Đặc điểm vật gây thương tích: Vật sắc, nhọn.

Tại bản kết luận giám định số 2996/KL-KTHS ngày 13/6/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận chiếc kéo có dính máu của Quách Văn T; Chất thu giữ tại hiện trường (ký hiệu M5) là máu của Bùi Văn L, chất thu giữ tại hiện trường (ký hiệu M6) là máu của Quách Văn T. Không tìm thấy cồn (Ethanol) trong mẫu máu của Bùi Văn L.

Tại bản kết luận giám định số 3005/KL-KTHS ngày 29/6/2022 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận không tìm thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong tệp video đã thu giữ tại nhà ông Đinh Văn Th gửi giám định.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thủy, Bùi Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Bùi Văn L đã thỏa thuận bồi thường thương tích cho anh Quách Văn T số T 60.000.000đ, L đã bồi thường được 02 lần (lần 1 bồi thường ngày 15/6/2022 số T 40.000.000 đồng; lần 2 bồi thường ngày 16/9/2022 số T 10.000.000đ), số T còn lại 10.000.000đ tiếp tục được bồi thường sau; và thỏa thuận bồi thường thương tích cho anh Quách Văn S số T 55.000.000đ, L đã bồi thường được 02 lần (lần 1 bồi thường ngày 15/6/2022 số T 30.000.000 đồng; lần 2 bồi thường ngày 16/9/2022 số T 10.000.000đ), số T còn lại 15.000.000đ tiếp tục được bồi thường sau, Nay anh T, anh S nhất trí với số T bị cáo Bùi Văn L còn phải bồi thường sau và không yêu cầu gì thêm về phần dân sự nữa. Anh T, anh S đều có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo L.

Về vật chứng của vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thủy đã thu giữ: 01 đôi dép lê màu xanh của Quách Văn S; 01 đôi dép lê màu nâu và 01 chiếc quần dài bám dính tạp chất của Quách Văn T, xét không ảnh hưởng đến việc giải quyết của vụ nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp nêu trên.

Đối với 01 chiếc kéo bằng kim loại dài 20,5cm, cán kéo bằng nhựa màu đỏ rộng 7cm, hai lưỡi kéo bằng kim loại dài 10cm đã cong vênh; 01 ghế nhựa màu đỏ kích thước 27cmx47cmx30cm, cũ đã qua sử dụng Cơ quan điều tra đã chuyển số vật chứng nêu trên đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Thuỷ quản lý chờ xử lý:

Đối với 01 chiếc USB nhãn hiệu TOSIBA dung lượng 4GB có chứa dữ liệu hình ảnh được trích xuất từ camera của gia đình Đinh Văn Th hiện được chuyển theo hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình đã truy tố bị cáo Bùi Văn L về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Văn L từ 30 tháng đến 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội: “Cố ý gây thương tích”, ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã thỏa thuận bồi thiệt hại Quách Văn T tổng số T 60.000.000đ, đã bồi thường được số T 50.000.000đ, số T còn lại 10.000.000đ sẽ được tiếp tục bồi thường sau; Quách Văn S tổng số T 55.000.000đ đã bồi thường được 40.000.000đ, số T còn lại 15.000.000đ sẽ được bồi thường sau. Nay bị hại anh T, anh S không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng: Đối với 01 chiếc kéo bằng kim loại dài 20,5cm, cán kéo bằng nhựa màu đỏ rộng 7cm, hai lưỡi kéo bằng kim loại dài 10cm đã cong vênh; 01 ghế nhựa màu đỏ kích thước 27cmx47cmx30cm, cũ đã qua sử dụng của gia đình anh Đinh Văn Th, nay không còn giá trị sử dụng anh Th không yêu cầu trả lại, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc USB nhãn hiệu TOSIBA dung lượng 4GB có chứa dữ liệu hình ảnh được trích xuất từ camera của gia đình Đinh Văn Th hiện được chuyển theo hồ sơ vụ án.

Hành vi của Quách Văn S dùng ghế nhựa ném nhằm mục đích gây thương tích cho bị cáo Bùi Văn L; hành vi của Quách Văn T dùng vỏ chai bia đánh gây thương tích bị cáo Bùi Văn L như đã nêu trên. Xét thấy hành vi của Quách Văn S, Quách Văn T tuy không bị truy cứu trách nhiệm hình nhưng S và T cũng có một phần lỗi trong vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử kiến nghị Công an huyện Yên Thủy xử phạt vi phạm hành chính đối với Quách Văn S và Quách Văn T theo điểm b khoản 4 Điều 7; điểm a khoản 5 Điều 7 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống bạo lực gia đình là đúng pháp luật.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai bị hại, người làm chứng, kết quả khám nghiệm hiện trường vụ án, vật chứng đã thu giữ, các kết luận giám định pháp y về thương tích, kết luận giám định khác và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa nên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 10 tháng 5 năm 2022, tại quán bi a nhà anh Đinh Văn Th ở xóm Vố Dấp, xã Hữu L, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình trong lúc bị cáo L chuẩn bị chơi bi a, thì Quách Văn S đến khiêu khích bị cáo Bùi Văn L không cho chơi bi a dẫn đến sảy ra mâu thuẫn thách đố đánh nhau giữa L và S, L có đấm S, T thấy vậy định vào đánh L thì được mọi người can ngăn, L đi ra ngoài gặp và nói chuyện với anh Đinh Văn Hùng. Lúc này S từ bàn bi a đi ra cầm ghế nhựa ném về phía L nhưng không trúng, còn T cầm vỏ chai bằng thủy tinh vung lên đánh một nhát trúng vào đuôi long mày mắt phải của L làm rách da chảy máu. Do bị đánh L tức bực nên cầm chiếc kéo bằng kim loại đâm với trúng vào phần ngực dưới vú phải của S gây thương tích cho S tổn hại 7% sức khỏe, T đứng ngoài thấy vậy bỏ chạy thì bị L đuổi theo đâm Quách Văn T một nhát vào mông phải, một nhát vào mặt đùi sau phải của T, lúc này T lật người quay lại về phía L thì L đâm thêm một nhát nữa từ trên xuống dưới trúng vào mặt trước đùi chân phải của T gây thương tích cho T tổn hại 13% sức khỏe với hành vi của bị cáo Bùi Văn L nêu trên đã phạm vào tội: " Cố ý gây thương tích", theo Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Bùi Văn L dùng kéo gây thương tích cho Quách Văn T, Quách Văn S theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1, mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 và hướng dẫn tại tiểu mục 2.2, mục 2, phần I Nghị Quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xác định kéo được coi là hung khí nguy hiểm. Việc Bùi Văn L đã có hành vi dùng hung khí nguy hiểm đâm vào vùng trọng yếu của Quách Văn S và Quách Văn T hành vi này có tình huống pháp lý tương tự án lệ số Quyết định số 594/QĐ-CA ngày 31/12/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nhận thấy: Từ diễn biến hành vi khách quan của L trước, trong và sau khi đâm T, S thể hiện ý thức chủ quan của L mong muốn đạt được mục đích gây thương tích cho các bị hại để thỏa mãn cơn bực tức cá nhân chứ không nhằm mục đích giết người do đó Hội đồng xét xử thấy không áp dụng án lệ số 47/2021/AL1 là có căn cứ. Do vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Bùi Văn L phạm tội: "Cố ý gây thương tích" với tình tiết định khung dùng hung khí nguy hiểm, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thủy truy tố bị cáo Bùi Văn L là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm đã xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an ở địa phương, bị cáo là người có đủ nhận thức được việc dùng kéo đâm người khác là gây tổn hại sức khỏe cho người bị hại, nhưng do tức bực thiếu sự kìm chế của bản thân nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp, do đó cần phải xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự đối với bị cáo mới đủ tác dụng để cải tạo và giáo dục bị cáo và đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng cần xem xét, đánh giá tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo Bùi Văn L.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại Quách Văn T là 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng); Quách Văn S số T 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng). Bị hại Quách Văn S, Quách Văn T cũng có một phần lỗi đến khiêu khích và đánh bị cáo L trước, nay anh S, T có đơn xin giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo; Bị cáo ra đầu thú; Bị cáo là người dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Bùi Văn L, bị hại Quách Văn S và Quách Văn T đã tự thỏa thuận bồi thường thiệt hại và đề nghị tòa ghi nhận cụ thể: Bùi Văn Văn L có trách nhiệm bồi thường cho anh Quách Văn T số tiền 60.000.000đ, bị cáo L đã bồi thường được 02 lần với tổng số tiền là 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng), số tiền còn lại 10.000.000đ bị cáo tiếp tục bồi thường sau; và thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho anh Quách Văn S số tiền 55.000.000đ, bị cáo L đã bồi được tổng số tiền 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng), số tiền còn lại 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) tiếp tục được bồi thường sau. Nay anh T, anh S nhất trí với số T bị cáo Bùi Văn L còn phải bồi thường sau và không yêu cầu gì thêm về phần dân sự nữa, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 chiếc kéo bằng kim loại dài 20,5cm, cán kéo bằng nhựa màu đỏ rộng 7cm, hai lưỡi kéo bằng kim loại dài 10cm đã cong vênh ;

01 ghế nhựa màu đỏ kích thước 27cmx47cmx30cm, cũ đã qua sử dụng của gia đình anh Đinh Văn Th, nay không còn giá trị sử dụng anh Th không yêu cầu trả lại, nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc USB nhãn hiệu TOSIBA dung lượng 4GB có chứa dữ liệu hình ảnh được trích xuất từ camera của gia đình Đinh Văn Th hiện được chuyển theo hồ sơ vụ án, đây là dữ liệu điện tử có liên quan đến vụ án nên cần được lưu hồ sơ vụ án.

[8] Về án phí: Bị cáo Bùi Văn L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về vấn đề khác: Trong vụ án bị cáo Bùi Văn L trong lúc xô sát đã bị Quách Văn T dùng một chai bia bằng thuỷ tinh đánh gây thương tích vào đuôi lông mày phải, do thương tích nhẹ và đã khỏi nên L không có yêu cầu đề nghị gì về thương tích của mình nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là có căn cứ.

Đối với vật chứng 01 vỏ chai bia bằng thuỷ tinh loại 750ml nhãn hiệu Hà Nội, mà Quách Văn T đã dùng để đánh bị cáo L, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm đến nay vẫn chưa thấy. Vì vậy nay tiếp tục truy tìm, khi có kết quả sẽ xử lý sau là phù hợp.

Trong vụ án ngoài thương tích ở vùng ngực phải của Quách Văn S còn vết rách da ngoán II bàn tay phải, vết trợt da ngón III, ngón IV bàn tay phải của Quách Văn S; ngoài thương tích ở mông phải, đùi phải của T thì còn thương tích ở ngón I, II bàn chân trái có vết thương trợt da để lộ xương ngón I. Qua điều tra đã làm rõ các vết thương trên không phải do bị cáo L gây ra mà do quá trình đi cấp cứu gây nên, Quách Văn S, Quách Văn T cũng không có yêu cầu đề nghị gì đối với các vết thương trên nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với hành vi của Quách Văn S dùng ghế nhựa ném nhằm mục đích gây thương tích cho bị cáo Bùi Văn L; hành vi của Quách Văn T dùng vỏ chai bia đánh gây thương tích bị cáo Bùi Văn L như đã nêu trên. Xét thấy hành vi của Quách Văn S, Quách Văn T tuy không bị truy cứu trách nhiệm hình nhưng S và T cũng có một phần lỗi trong vụ án. Do vậy kiến nghị Công an huyện Yên Thủy xử phạt vi phạm hành chính đối với Quách Văn S và Quách Văn T theo điểm b khoản 4 Điều 7; điểm a khoản 5 Điều 7 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống bạo lực gia đình là có căn cứ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Bùi Văn L 30 (ba mươi) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 05 (năm) năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Bùi Văn L cho Ủy ban nhân dân xã Hữu L, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Toà án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo qui định tại điều 56 của Bộ luật hình sự.

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 590 Bộ luật dân sự: Bị cáo Bùi Văn L, bị hại Quách Văn S và Quách Văn T đã tự thỏa thuận bồi thường thiệt hại và đề nghị tòa ghi nhận cụ thể: Bùi Văn L còn phải có trách nhiệm tiếp tục bồi thường cho bị hại anh Quách Văn S số tiền còn lại 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng); anh Quách Văn T số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người thi hành án không thanh toán khoản T phải thi hành án, thì hàng tháng phải chịu lãi đối với số tiền chậm thi hành theo mức mức lãi xuất qui định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc kéo bằng kim loại dài 20,5cm, cán kéo bằng nhựa màu đỏ rộng 7cm, hai lưỡi kéo bằng kim loại dài 10cm đã cong vênh; 01 ghế nhựa màu đỏ kích thước 27cmx47cmx30cm, cũ đã qua sử dụng của gia đình anh Đinh Văn Th.

Các vật chứng nêu trên được mô tả cụ thể tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/8/2022 giữa Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Yên Thủy và Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thủy.

Đối với 01 chiếc USB nhãn hiệu TOSIBA dung lượng 4GB có chứa dữ liệu hình ảnh được trích xuất từ camera của gia đình Đinh Văn Th hiện được chuyển theo hồ sơ vụ án, đây là dữ liệu điện tử có liên quan đến vụ án nên cần được lưu hồ sơ vụ án.

5. Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 7; điểm a khoản 5 Điều 7 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống bạo lực gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử kiến nghị Công an huyện Yên Thủy xử vi phạm hành chính đối với Quách Văn S và Quách Văn T.

6. Án phí: Căn cứ khoản 2, điều 135, khoản 2, điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016. Buộc bị cáo Bùi Văn L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) T án phí hình sự sơ thẩm.

7. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 36/2022/HS-ST về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:36/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thủy - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;