TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 24/07/2019 VỀ ĐÁNH BẠC
Ngày 24 tháng 7 năm 2019, tại hội trường xét xử huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2019 đối với - Các bị cáo:
+ Vũ Văn K, sinh năm 1942; Nơi cư trú: Thôn TTg, xã LS, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 4/7; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Hữu Đ và bà Phạm Thị Tr (Đều đã chết); Có vợ và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
Có mặt tại phiên tòa.
+ Vũ Văn Lâm, sinh năm 1989; ĐKHKTT: Phường CT, thị xã Ngh L, tỉnh Y B; Chỗ ở hiện nay: Thôn TT, xã LS, huyện TM, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Xuân B và bà Nguyễn Thị Ngh; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 02/5/2018 bị Chủ tịch UBND huyện Thanh Miện xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/4/2019 đến ngày 01/5/2019, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
Có mặt tại phiên tòa.
+ Vũ Văn Ph, sinh năm 1989; Nơi cư trú: TT, xã LS, huyện TM, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn Ph và bà Nguyễn Thị Ng; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 02/5/2018 bị Chủ tịch UBND huyện Thanh Miện xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/4/2019 đến ngày 01/5/2019, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
Có mặt tại phiên tòa.
+ Trần Quang Th sinh năm 1969; Nơi cư trú: Thôn TT, xã LS, huyện TM, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Kh (Đã chết) và bà Trần Thị Nh; Có vợ và 04 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/4/2019 đến ngày 01/5/2019, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
Có mặt tại phiên tòa.
+ Vũ Văn V, sinh năm 1983; Nơi cư trú: Thôn TT, xã LS, huyện TM, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Quang C và bà Nguyễn Thị T; Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 24 ngày 16/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ; Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/4/2019 đến ngày 01/5/2019, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.
Có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho các bị cáo Vũ Văn K và Trần Quang Th: Ông Phạm Văn Điều - Trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Hải Dương.
Có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng: Anh Trương Văn V, sinh năm 1970; Địa chỉ: TT, xã LS, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 28/4/2019, Vũ Văn L đến nhà Vũ Văn K chơi, uống nước. Trong lúc ngồi chơi K nói với L “Chú cháu mình làm tí phỏm”, ý là rủ L đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh phỏm, L đồng ý. Lâm lấy chiếc chiếu cói cũ trải xuống nền nhà, K lấy bộ bài tú lơ khơ 52 quân ở gầm bàn để xuống chiếu cùng đánh bạc dưới hình thức đánh phỏm với tỉ lệ 10.000 đồng, 20.000 đồng và 30.000 đồng. Một lát sau có Vũ Văn V và anh Trương Văn V, sinh năm 1970 ở cùng thôn đến ngồi chơi, xem ti vi. Sau đó Trần Quang Th và Vũ Văn Ph lần lượt đến chơi vào cùng đánh bạc với K và L. Khi K đánh bạc hết tiền lên ghế ngồi thì V xuống chơi thế chỗ của K cùng đánh bạc với L, Ph và Th. V, L, Ph và Th thống nhất đánh bạc với tỷ lệ 20.000 đồng, 40.000 đồng, 60.000 đồng, 80.000 đồng và 100.000 đồng. Đến 21 giờ 50 phút cùng ngày thì bị lực lượng công an huyện Thanh Miện phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ vật chứng gồm: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân từ A đến K, 01 chiếu cói cũ; Thu giữ số tiền 10.100.000 đồng trên chiếu bạc và khu vực xung quanh chiếu bạc; Thu trên người Trần Quang Th 1.400.000 đồng, Vũ Văn Ph 6.500.000 đồng và Vũ Văn L 3.700.000 đồng. Tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào việc đánh bạc là 8.000.000 đồng.
Quá trình điều tra xác định số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc như sau: Vũ Văn K có 320.000 đồng, Trần Quang Th có 1.500.000 đồng đều sử dụng hết vào việc đánh bạc; Vũ Văn L có 6.100.000 đồng, sử dụng 2.100.000 đồng vào việc đánh bạc; Vũ Văn Ph có 8.020.000 đồng, sử dụng 3.020.000 đồng vào việc đánh bạc; Vũ Văn V có 5.760.000 đồng, sử dụng 1.060.000 đồng vào việc đánh bạc.
Tại bản Cáo trạng số: 31/VKS-HS ngày 04 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương truy tố các bị cáo Vũ Văn K, Vũ Văn V, Vũ Văn L, Vũ Văn Ph và Trần Quang Th về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà: Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên.
Đại diện VKSND huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương thực hành quyền công tố trình bày luận tội giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị HĐXX:
- Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Vũ Văn K, Vũ Văn V, Vũ Văn L, Vũ Văn Ph và Trần Quang Th phạm tội “Đánh bạc”.
- Về hình phạt chính:
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 17, Điều 58, Điểm i, o, s, v khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Văn K;
Xử phạt bị cáo Vũ Văn K từ 06 đến 08 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 16 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 17, Điều 58, Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Văn L, Vũ Văn Ph.
Xử phạt bị cáo Vũ Văn L từ 06 đến 08 tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ bằng 03 ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.
Xử phạt bị cáo Vũ Văn Ph từ 06 đến 08 tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ bằng 03 ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 17, Điều 58, Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Khoản 3 Điều 54 Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Quang Th;
Xử phạt bị cáo Trần Quang Th từ 05 đến 07 tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ bằng 03 ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 17, Điều 58, Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Văn V;
Xử phạt bị cáo Vũ Văn V từ 06 đến 08 tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ bằng 03 ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.
- Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 3 Điều 321, Điều 35 của Bộ luật Hình sự, phạt các bị cáo Vũ Văn V, Vũ Văn L và Vũ Văn Ph mỗi bị cáo từ 10 đến 15 triệu đồng nộp ngân sách Nhà nước.
- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, b, khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
+ Tịch thu cho tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân từ A đến K; 01 chiếu cói cũ.
+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc.
+ Trả lại cho các bị cáo Vũ Văn L số tiền 4.000.000 đồng; Vũ Văn Ph số tiền 5.000.000 đồng; Vũ Văn V số tiền 4.700.000 đồng nhưng bảo thủ để thi hành án.
- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc Hội; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo L, Ph, V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo K, Th.
Người bào chữa cho bị cáo K, Thám trình bày lời bào chữa và đề nghị HĐXX xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điểm i, o, s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo K đề nghị HĐXX xem xét xử phạt bị cáo Kiểm 06 tháng cải tạo không giam giữ; Đề nghị áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS đối với bị cáo Thám đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Thám 05 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian chấp hành tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị cáo K là người cao tuổi, đang chữa bệnh, không có thu nhập, bị cáo Th thuộc diện hộ cận nghèo nên miễn án phí hình sự và không áp dụng hình phạt bổ sung với cả hai bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Miện; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về Thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 28/4/2019, tại nhà ở của Vũ Văn K ở thôn TT, xã LS, huyện TM, tỉnh Hải Dương; Kiểm có hành vi dùng nhà ở của mình cùng với Vũ Văn L, Vũ Văn Ph, Trần Quang Th và Vũ Văn V đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức đánh “Phỏm”, đến 21 giờ 50 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an huyện Thanh Miện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Tổng số tiền các bị can sử dụng vào việc đánh bạc là 8.000.000 đồng.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi:
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đánh bạc là trái phép, sát phạt nhau bằng tiền là trái pháp luật, bị nhà nước cấm nhưng vì mục đích vụ lợi các bị cáo vẫn cố tình thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
[4] Xét vị trí, vai trò của từng bị cáo:
Trong vụ án này có 05 bị cáo, các bị cáo không hứa hẹn từ trước, các bị cáo không có sự cấu kết chặt chẽ nên chỉ là đồng phạm giản đơn. Tuy nhiên cũng cần xem xét vị trí vai trò của từng bị cáo để làm căn cứ quyết định hình phạt.
Bị cáo Vũ Văn K là người đề xuất việc đánh bạc, bị cáo Vũ Văn L là người trải chiếu và lấy bộ bài tú lơ khơ 52 quân dưới bàn uống nước nhà K đồng thời K và L là hai bị cáo đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền đầu tiên và tham gia đánh bạc tích cực, số tiền sử dụng vào đánh bạc của bị cáo K là 320.000 đồng của bị cáo L là 2.100.000 đồng nên hai bị cáo giữ vai trò chính trong vụ án.
Các bị cáo Trần Quang Th, Vũ Văn Ph và Vũ Văn V là những người đến sau cùng tham gia đánh bạc. Số tiền sử dụng vào việc đánh bạc của bị cáo Th là 1.500.000 đồng; bị cáo Ph là 3.020.000 đồng, bị cáo V là 1.060.000 đồng nên giữ vai trò ngang nhau và ở vị trí cuối trong vụ án.
Bị cáo Trần Quang Th đến sau nhưng tiếp nhận ý chí và chơi đánh bạc tích cực từ đầu đến cuối.
[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy:
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Các bị cáo Vũ Văn K, Vũ Văn L, Vũ Văn Ph và Trần Quang Th không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo Vũ Văn V đã bị kết án về tội đánh bạc, tại Bản án số 24 ngày 16/6/2017, Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương đã xử phạt bị cáo 12 tháng cải tạo không giam giữ chưa được xóa án tích lại cố ý phạm tội nên bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Các bị cáo Vũ Văn K, Trần Quang Th phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo K được tặng thưởng Huân chương kháng chiến, phạm tội khi trên 70 tuổi nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm o, x khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo Vũ Văn V có bố đẻ được tặng thưởng Huy chương; Bị cáo Th có anh là Liệt sỹ và được tặng thưởng Huân chương chiến công giải phóng và Huân chương chiến sỹ giải phóng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;
Xét bị cáo Vũ Văn K khi phạm tội đã trên 70 tuổi, có nhân thân tốt có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng nên không buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn mà cho bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ giúp bị cáo trở thành một công dân tốt biết tuân thủ pháp luật.
Bị cáo Trần Quang Th tham gia đánh bạc tích cực từ đầu đến cuối, số tiền đánh bạc 1.500.000 đồng, có nhân thân xấu đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi đánh bạc. Các bị cáo Vũ Văn L, Vũ Văn Ph đều có tiền sự về hành vi đánh bạc, ngày 02/5/2018 bị Chủ tịch UBND huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi đánh bạc, chưa hết thời gian được coi là xóa tiền sự; Bị cáo Vũ Văn Vình có tiền án về tội đánh bạc chưa được xóa án tích. Các bị cáo không lấy đó là bài học cho mình, vẫn cố ý phạm tội chứng tỏ sự coi thường pháp luật nên cần thiết áp dụng hình phạt tù buộc cách ly khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục giúp các bị cáo nhận thức được hành vi sai trái của mình và tuân thủ pháp luật. Bị cáo Vũ Văn V tuy có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” nhưng bị cáo là người đánh bạc cuối cùng, thời gian đánh bạc ít, số tiền sử dụng vào việc đánh bạc thấp và có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần áp dụng mức hình phạt đầu khung và bằng các bị cáo Ph, L là phù hợp. Bị cáo Trần Quang Th có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên cần áp dụng khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.
[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài việc áp dụng hình phạt chính, cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Vũ Văn V, Vũ Văn L và Vũ Văn Ph mỗi bị cáo 15.000.000 đồng theo quy định tại khoản 3 Điều 321, Điều 35 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Th thuộc diện hộ cận nghèo, bị cáo K là người cao tuổi, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với hai bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng:
- Cơ quan cảnh sát điều tra quản lý và thu giữ số tiền 10.100.000 đồng trên chiếu bạc và khu vực xung quanh chiếu bạc, trong đó 8.000.000 đồng là số tiền sử dụng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.
- Đối với số tiền của các bị cáo: Vũ Văn L số tiền 4.000.000 đồng; Vũ Văn Ph số tiền 5.000.000 đồng; Vũ Văn V số tiền 4.700.000 đồng các bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo nhưng cần tiếp tục quản lý để đảm bảo việc thi hành án, sau khi đối trừ, còn lại sẽ trả cho các bị cáo, thiếu các bị cáo tiếp tục phải nộp bổ sung.
- Đối với 01 chiếu cói cũ, 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân là công cụ dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng, vì vậy cần tịch thu cho tiêu huỷ.
Các bị cáo đã có hành vi đánh bạc tại nhà bị cáo Vũ Văn K, bà Hà Thị P (Vợ bị cáo Kiểm) không biết các bị cáo đánh bạc nên không bị xử lý là phù hợp.
[8] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc Hội; Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo L, Ph, V mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo K, Th.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Vũ Văn K, Vũ Văn Ph, Vũ Văn L, Trần Quang Th, Vũ Văn V phạm tội: “Đánh bạc”.
2. Về Điều luật áp dụng:
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 17, Điều 58; Điểm i, o, s, x khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Văn K;
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 17, Điều 58; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Văn Ph;
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 17, Điều 58; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Văn L;
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 17, Điều 58; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Khoản 1, 3 Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Quang Th;
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 17, Điều 58; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Văn V;
3. Về hình phạt chính:
- Xử phạt bị cáo Vũ Văn K 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Xử phạt bị cáo Vũ Văn Ph 06 tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ, bị cáo còn phải chấp hành 05 tháng 27 ngày, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.
- Xử phạt bị cáo Vũ Văn L 06 tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ, bị cáo còn phải chấp hành 05 tháng 27 ngày, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.
- Xử phạt bị cáo Trần Quang Th 05 tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ, bị cáo còn phải chấp hành 04 tháng 27 ngày, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.
- Xử phạt bị cáo Vũ Văn V từ 06 tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ, bị cáo còn phải chấp hành 05 tháng 27 ngày, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.
Giao bị cáo Vũ Văn K cho UBND xã LS, huyện TM, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.
4. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 3 Điều 321, Điều 35 của Bộ luật Hình sự, phạt các bị cáo Vũ Văn V, Vũ Văn L và Vũ Văn Ph mỗi bị cáo 15 triệu đồng nộp ngân sách Nhà nước. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo Trần Quang Th và bị cáo Vũ Văn K.
5. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, b, khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
+ Tịch thu cho tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân từ A đến K; 01 chiếu cói cũ.
+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc.
+ Trả lại cho các bị cáo Vũ Văn L số tiền 4.000.000 đồng; Vũ Văn Ph số tiền 5.000.000 đồng; Vũ Văn V số tiền 4.700.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo việc thi hành án, sau khi đối trừ, còn lại sẽ trả cho các bị cáo, thiếu các bị cáo tiếp tục phải nộp bổ sung.
(Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/7/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Miện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương).
6. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc Hội; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo L, Ph, V mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo K, Th.
7. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 31/2019/HS-ST ngày 24/07/2019 về đánh bạc
Số hiệu: | 31/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Miện - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/07/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về