Bản án 303/2021/HS-PT ngày 23/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 303/2021/HS-PT NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

- Ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 213/2021/TLPT-HS ngày 10 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn C do có kháng cáo của Nguyễn Văn C đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 32/2021/HSST ngày 29/01/2021 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

1. Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn C, sinh năm 1985; ĐKHKTT: Thôn H, xã H, huyện M, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Nguyễn Công T (đã chết) và con bà Nguyễn Thị V; Vợ, con chưa có;

Tiền sự: Không.

Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 211/2017/HSST ngày 27/9/2017 bị Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm xử 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt ngày 01/11/2018.

Nhân thân:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2013/HSST ngày 23/7/2009, Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ xử 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt ngày 13/10/2013 ( đã xóa án).

- Ngày 19/11/2018, Công an huyện Mỹ Đức ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh bạc.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/5/2020; Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị cáo không có kháng cáo: Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1992; ĐKHKTT: Thôn A, xã L, huyện M, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: lớp 7/12; Con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Dương Thị T; Vợ là Phạm Thị M và có 01 con (sinh năm 2013); Tiền sự: Không; Tiền án: không.

Nhân thân:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2009/HSST Ngày 31/8/2009 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức xử 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản ( đã xóa án).

- Bản án số 88/2009/HSST Ngày 18/9/2009, Tòa án huyện Gia Lâm xử phạt 27 tháng tù về tội Cướp giật tài sản. Tổng hợp với hình phạt của Bản án số 45/2009/HSST ngày 31/8/2009 Tòa án huyện Mỹ Đức, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 46 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt ngày 30/11/2011 (đã xóa án).

- Bản án số 96/2015/HSST ngày 30/12/2015 Tòa án huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt ngày 22/9/2016 ( đã xóa án).

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/5/2020; Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên tòa.

(Vắng mặt tại phiên tòa).

3. Bị hại không có kháng cáo:

3.1.Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1998; Trú tại: ...., Phú Thọ.

3.2.Anh Lê Trọng Ng, sinh năm 1998; Trú tại:..., Hưng Yên.

3.3.Chị Nguyễn Kim T, sinh năm 1997; Trú tại: ... tỉnh Thanh Hòa.

3.4.Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1971; Trú tại: ....., thành phố Hà Nội.

3.5.Chị Trần Thu Tr, sinh năm 1997; Trú tại......., Hà Nội.

3.6.Anh Nguyễn Khánh T, sinh năm 1993; Trú tại: ...., tỉnh Nam Định.

Anh Phan Đình B, sinh năm 1991; Trú tại: ....., thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

3.7.Chị Đinh Thị Th, sinh năm 1990; Trú tại: ......, thành phố Hà Nội.

3.8.Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1988; Trú tại: ..... thành phố Hà Nội.

3.9.Chị Cao Lương Vân H, sinh năm 1993; Trú tại: .... thành phố Hà Nội.

Bị hại đều vắng mặt do Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Ch, Nguyễn Văn C và Mai Văn Q, đều là đối tượng có nhiều tiền án, tiền sự, có quan hệ xã hội với nhau, không có nghề nghiệp ổn định.

Do muốn có tiền ăn tiêu nên đã rủ nhau đi trộm cắp tài sản là xe máy để bán lấy tiền ăn tiêu. Thực hiện ý định trên, Ch và C chuẩn bị 02 vam phá khóa, 02 tay công và 02 khóa mở ổ khóa từ xe máy và thống nhất sử dụng chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu xanh, BKS 29Y1-440.08 của Ch hoặc sử dụng những chiếc xe máy trộm cắp được đi lang thang đến các khu dân cư, nhà trọ xem ai sơ hở thì trộm cắp tài sản, thống nhất Ch là người điều khiển xe máy, C là người kiểm tra khóa cổng và phá khóa để Ch, Q vào trộm cắp tài sản. Trong khoảng thời gian từ tháng 3/2020 đến tháng 7/2020, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, Ch, C và Q đã 07 lần cùng nhau thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản, chứng minh được cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 31/3/2020, Ch điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda AirBlade màu đen của C (C khai mượn chiếc xe máy trên của Hùng là bạn xã hội, không rõ tên tuổi, địa chỉ) chở C, Q đi đến khu nhà trọ ở số 56, ngõ 197 Trần Phú, phường Văn Quán, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thì phát hiện bên trong sân để nhiều xe máy, không có người trông giữ. Ch đứng bên ngoài cảnh giới, C dùng tay công phá khóa cổng, Q vào trong sân thấy chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead, sơn màu đỏ đen, BKS 19S1-316.96, số khung RLHJF7925KZ022249, số máy JA89E0114534 của chị Nguyễn Thị Thu H, SN 1998, HKTT: ...., tỉnh Phú Thọ không khóa cổ, khóa càng nên dắt chiếc xe ra ngoài. C dùng vam phá khóa cổ và dắt chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu cam- đen- bạc, BKS 89F1-441.75, số khung 3910KY187274, số máy JA39E1044988 của anh Lê Trọng Ng, SN 1998, HKTT: ..., tỉnh Hưng Yên ra ngoài. Sau đó, C điều khiển xe mãy nhãn hiệu Honda Wave BKS 89F1-441.75, Q điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Lead BKS 19S1-316.96, Ch điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu Honda AirBlade đi về phòng trọ của Ch ở ngách ...., thành phố Hà Nội. Sau đó, Ch nhờ B (là bạn quen biết xã hội của Ch, Ch chỉ biết ở Văn Quán, Hà Đông và không biết rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể) bán chiếc xe máy Honda Lead, sơn màu đỏ đen, BKS 19S1-316.96 của chị Nguyễn Thị Thu H lấy số tiền 19.000.000 đồng, các đối tượng ăn uống hết 1.000.000 đồng và chia nhau mỗi người 6.000.000 đồng ăn tiêu hết. Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, Ch đem bán cho Đặng Thanh T, SN 1990, HKTT: ...., Hà Nội (là người cùng làng với C) lấy số tiền 6.000.000 đồng rồi chia nhau mỗi người 2.000.000 đồng ăn tiêu hết.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ngày 31/3/2020 chị Nguyễn Thị Thu H và anh Lê Trọng Ng có đơn trình báo đến Cơ quan Công an sự việc như đã nêu trên.

Tại Biên bản và Kết luận định giá tài sản số 202/KL-HĐĐG ngày 03/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông, kết luận:

01(mt) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu đỏ đen, BKS: 19S1-316.96, số khung RLHJF7925KZ022249, số máy JA89E011453 trị giá 38.000.000 đồng;

01(mt) xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu cam, đen, bạc BKS: 89F1-441.75, số khung 3910KY187274, số máy JA39E1044988 trị giá 18.000.000 đồng.

Lần thứ hai: Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 02/4/2020, Ch điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu xanh, BKS: 29Y1-440.08 phía sau chở C đi tìm xem có ai sơ hở thì trộm cắp xe máy. Khi đi đến nhà số ......, thành phố Hà Nội thì phát hiện thấy bên trong sân để nhiều xe máy, không có người trông giữ. Ch dừng xe gần cổng nhà trọ, C kiểm tra thấy cổng khóa nên dùng tay công phá khóa cổng rồi đi vào trong sân dùng vam phá khóa cổ và dắt chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision, sơn màu xanh, BKS 36B5-558.10, số khung 5810GY109664, số máy JF66E0109680 của chị Nguyễn Kim T, SN 1997, HKTT: ........, tỉnh Thanh Hóa đi ra ngoài. Sau khi lấy được chiếc xe của anh Sơn, Ch điều khiển chiếc xe nhãn hiệu Honda Wave BKS: 29Y1- 440.08, C điều khiển chiếc xe nhãn hiệu Honda Vision BKS 29T1-911.11 đi về phòng trọ ở ......., thành phố Hà Nội cất chiếc xe máy Honda Wave BKS 29Y1 - 440.08 tại phòng trọ. Sau đó, Ch và C điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đen xám của anh Sơn quay lại nhà số 19B, ngõ 31, tổ dân phố Bạch Đằng, pH Vạn Phúc, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội tiếp tục lấy trộm xe máy. Ch đứng ngoài cảnh giới còn C đi vào trong sân thấy chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision, màu đen xám, BKS 29T1- 911.11, số khung 5830KY103809, số máy JF86E2168232 của anh Nguyễn Văn S, SN 1971, HKTT: ......., quận Hà Đông, thành phố Hà Nội không khóa cổ, không khóa càng nhưng do khóa xe là khóa điện tử C không mở được nên C dắt xe ra ngoài rồi cùng với Ch đẩy xe về phòng trọ. Khi đi đến khu vực bến xe Yên Nghĩa, quận Hà Đông thì bị Tổ tuần tra Công an quận Hà Đông phát hiện nên C bỏ lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đen xám đã lấy trộm của anh Sơn lại lề đường, rồi bỏ chạy. Sáng ngày 03/4/2020, Ch và C mang bán chiếc xe máy nhãn hiệu Vision, sơn màu xanh, BKS 36B5-558.10 của chị Nguyễn Kim T cho Đặng Thanh T lấy số tiền 6.000.000 đồng, chia nhau mỗi người 3.000.000 đồng ăn tiêu hết.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ngày 02/4/2020 anh Nguyễn Văn S và chị Nguyễn Kim T có đơn trình báo đến Cơ quan Công an sự việc như đã nêu trên.

Tại Biên bản và Kết luận định giá tài sản số 202/KL-HĐĐG ngày 03/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông, kết luận:

01 (một) chiếc xe Honda Vision, màu đen xám, BKS : 29T1 – 911.11, số khung 5830KY103809, số máy JF86E2168232, trị giá 28.500.000 đồng ;

01(mt) chiếc xe nhãn hiệu Honda Vision, màu xanh, BKS: 36B5 – 558.10, số khung 5810GY109664, số máy JF66E0109680, trị giá 23.000.000 đồng”

Lần thứ ba: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 19/4/2020, Ch điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, BKS: 29Y1-440.08 chở Q đi tìm có ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đi đến số nhà ....., thành phố Hà Nội thì phát hiện thấy 01(một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu trắng- đen- bạc, BKS 29M1-612.88, số khung 3906HI416427, số máy JA39E0391582 của chị Trần Thu Tr, SN 1997, HKTT:

......,TP. Hà Nội, xe đang dựng ở vỉa hè trước cửa nhà không có người trông giữ. Q ngồi trên chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave để cảnh giới, Ch lại gần thấy xe không có khóa cổ, khóa càng, Ch dùng vam mang theo phá khóa điện chiếc xe và dắt chiếc xe ra ngoài rồi lên xe đi. Sau đó, Ch mang bán chiếc xe cho Đặng Thanh T lấy số tiền 5.000.000 đồng, rồi chia cho Q mỗi người 2.500.000 đồng ăn tiêu hết.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ngày 19/4/2020 chị Trần Thu Trcó đơn trình báo đến Cơ quan Công an sự việc như đã nêu trên.

Tại Biên bản và Kết luận định giá tài sản số 202/KL-HĐĐG ngày 03/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông, kết luận: “01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, đen, bạc BKS: 29M1-612.88, số khung 3906HI416427, số máy JA39E0391582 đã qua sử dụng, trị giá 15.000.000 đồng”

Lần thứ tư: Khong 12 giờ 30 phút ngày 21/4/2020, Ch điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu xanh, BKS 29Y1-440.08 chở Q đi tìm tài sản để trộm cắp. Khi đi đến số nhà ......., thành phố Hà Nội thì phát hiện thấy 01(một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu đen, BKS 18P1-896.33, số khung RLHJA3906HY038352, số máy JA39E0038413 của anh Nguyễn Khánh T, SN 1993, HKTT: .........., tỉnh Nam Định dựng trước cửa, xe không có người trông giữ, không khóa càng. Q đứng ngoài cảnh giới, Ch dùng vam mang sẵn phá khóa cổ xe và dắt chiếc xe ra ngoài nổ máy đi xe về phòng trọ. Đến ngày 22/4/2020, Ch mang chiếc xe máy trộm cắp được của anh Toàn bán cho một người đàn ông tên Bình ( Ch không rõ tên tuổi, địa chỉ chỉ biết người này là lái xe ôm Grab ở khu vực bến xe Yên Nghĩa) lấy số tiền 3.000.000 đồng, toàn bộ số tiền này do chưa gặp được Q nên Ch chưa chia cho Q và ăn tiêu cá nhân hết.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản anh Nguyễn Khánh T đã trình báo đến Cơ quan Công an sự việc như đã nêu trên.

Tại Biên bản và Kết luận định giá tài sản số 202/KL-HĐĐG ngày 03/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông, kết luận: “01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS: 18P1 – 896.33, số khung RLHJA3906HY038352, số máy JA39E0038413, đã qua sử dụng, trị giá 13.600.000 đồng”.

Lần thứ năm: Khong 05 giờ 00 phút ngày 22/4/2020, Ch điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, sơn màu xanh, BKS 29Y1-440.08 chở C, Q đi trộm cắp xe máy. Khi đi đến khu nhà trọ ở số ........, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội thì phát hiện bên trong sân có nhiều xe máy, Ch đứng ngoài cảnh giới, C mở cổng còn Q đi vào sân nhà trọ thấy chiếc xe máy nhãn hiệu Honda AirBalde, sơn màu đỏ- đen, BKS 34E1-198.35, số khung 6301FZ611483, số máy JF63E1131317 của anh Phan Đình B, SN 1991, HKTT : ......, tỉnh Hải Dương không khóa cổ, khóa càng, Q dắt xe ra bên ngoài sau đó C dùng vam phá khóa xe máy rồi cả ba điều khiển xe mang về bán cho Đặng Thanh Tuấn lấy số tiền 6.000.000 đồng, chia nhau mỗi người 2.000.000 đồng ăn tiêu hết.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ngày 06/5/2020 anh Phan Đình B có đơn trình báo đến Cơ quan Công an sự việc như đã nêu trên.

Tại Biên bản và Kết luận định giá tài sản số 386/KLĐG ngày 05/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Trì, kết luận: “01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda AirBalde màu đỏ đen BKS: 34E1-198.35, số khung 6301FZ611483, số máy JF63E1131317 trị giá 33.074.700 đồng” Lần thứ sáu: Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 24/4/2020, Ch điều khiển xe máy Honda Wave màu xanh, BKS : 29Y1-440.08 chở C đi trộm cắp tài sản. Khi đi đến nhà ....., quận H, thành phố Hà Nội thì phát hiện thấy bên trong sân có nhiều xe máy, Ch đứng ngoài cảnh giới còn C dùng tay công phá khóa cổng đi vào trong sân thấy chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead, sơn màu xám, BKS 29Y1-202.46, số khung 117262, số máy 0207134 của chị Đinh Thị Th, SN 1990, HKTT : ......., thành phố Hà Nội, xe không khóa cổ, không khóa càng, chìa khóa điện vẫn cắm ở xe, C dắt chiếc xe của chị Th ra ngoài. Sau khi lấy được chiếc xe của chị Thiệp, Ch và C đi về phòng trọ cất xe máy Honda Wave màu xanh, BKS 29Y1-440.08 ở phòng trọ, cả hai điều khiển chiếc xe của chị Th quay lại nhà số 25TT26 khu đô thị Văn Phú, phường Phú La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội tiếp tục trộm cắp xe máy. Đến nơi, C dùng vam phá ổ khóa trộm cắp chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH 125i, màu đen BKS: 29Y3-557.91, số khung 950XKY010099, số máy JF95E0010206 của chị Nguyễn Thị L, SN 1988, HKTT: ........, thành phố Hà Nội dắt ra ngoài đi về phòng trọ của Ch cất giấu. Cùng ngày, C mang chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH125i BKS: 29Y3-557.91 bán cho Đặng Thanh T lấy số tiền 21.000.000 đồng, chia nhau mỗi người 10.500.000 đồng ăn tiêu hết. Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead, sơn màu xám, BKS 29Y1-202.46 của chị Th cất giấu tại phòng trọ của Ch. Ngày 03/5/2020, Ch, C tháo biển kiểm soát và lắp biển kiểm soát số 18B1- 896.33 sử dụng đi trộm cắp tài sản tại khu nhà trọ ở ....... , TP.Hà Nội. Sau khi trộm cắp ngày 03/5/2020 xong, Ch, C điều khiển về huyện Mỹ Đức, trên đường đi đã vứt biển kiểm soát BKS 29Y1-202.46 ở dọc đường và Ch mang đến gửi tại nhà của Nguyễn Xuân P, SN 1999, HKTT: ....... thành phố Hà Nội (là bạn của Ch).

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ngày 22/4/2020 chị Đinh Thị Th, chị Nguyễn Thị L có đơn trình báo đến Cơ quan Công an sự việc như đã nêu trên.

Tại Biên bản, Kết luận định giá tài sản số 202/KL-HĐĐG ngày 03/7/2020 và Kết luận định giá tài sản số 266A/KL-HĐĐG ngày 22/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông, kết luận:

01(mt) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead, sơn màu xám BKS 29Y1-202.46, số khung 117262, số máy 0207134, đã qua sử dụng, trị giá 21.000.000 đồng;

01(mt) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH 125i, sơn màu đen, BKS 29Y3- 557.91, số khung 950XKY010099, số máy JF95E0010206, đã qua sử dụng, trị giá 85.000.000 đồng”.

Lần thứ bảy: Khong 05 giờ 00 phút ngày 03/5/2020, Ch lắp chiếc biển kiểm soát số 18B1- 896.33 vào chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead, sơn màu xám, số khung 117262, số máy 0207134 là chiếc xe Ch và C đã chiếm đoạt của chị Đinh Thị Th, SN 1990, HKTT : ............, thành phố Hà Nội ngày 24/4/2020 tại nhà số 25TT26, khu đô thị Văn Phú, quận Hà Đông, TP.Hà Nội. Ch điều khiển chiếc xe chở C và Q đi trộm cắp tài sản. Khi đi đến khu nhà trọ ở số 10, ngách 50/142 Mễ Trì Thượng, Mễ Trì, Nam Từ Liêm, TP.Hà Nội thì phát hiện thấy bên trong sân nhà trọ có nhiều xe máy, cổng không khóa chỉ cài then, Q đi ra đầu ngõ cảnh giới còn Ch mở cổng đi vào trong sân dắt chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH Mode, sơn màu xanh- nâu, BKS 29Y3- 227.27, số khung 080735, số máy 0080770 của chị Cao Lương Vân H, SN 1993, HKTT........, thành phố Hà Nội ra bên ngoài rồi dùng vam phá ổ khóa, nổ máy xe đi về. Sau khi lấy được chiếc xe, C mang xe về khu vực huyện Mỹ Đức để bán nhưng không bán được. Đến khoảng 08 giờ 00 phút ngày 05/5/2020, C mang chiếc xe ra phòng trọ của Ch ở ........, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội để cất giấu. Hồi 21 giờ cùng ngày, thì tổ công tác Công an phường Phú Lãm kiểm tra hành chính, phát hiện thu giữ chiếc xe máy trên.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, chị Cao Lương Vân H đã đến Cơ quan Công an trình báo sự việc như đã nêu trên.

Tại Biên bản và Kết luận định giá tài sản số 202/KL-HĐĐG ngày 03/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông, kết luận: “01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH Mode màu xanh, nâu, BKS: 29Y3 – 227.27 số khung 080735, số máy 0080770 trị giá 40.000.000 đồng”.

Ngày 06/5/2020, Nguyễn Văn Ch, Nguyễn Văn C đã đến cơ quan Công an xin đầu thú, khai nhận hành vi vi phạm của bản thân và đồng phạm.

Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình.

Bản án hình sự sơ thẩm số: 32/2021/HS-ST ngày 29 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội đã quyết định:

n cứ điểm a khoản 3 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 (đầu thú) Điều 51; điểm b, g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn Ch.

- Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 173; điểm b, g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn C.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Ch 10 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ tạm giam 07/5/2020.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 09 năm tù Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ tạm giam 07/5/2020.

Ngoài ra bản án hình sự sơ thẩm còn quyết định về dân sự, vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 04/2/20021 bị cáo Nguyễn Văn C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giữ nguyên đề nghị kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội sau khi đánh giá tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo, đúng về mặt chủ thể kháng cáo và trong thời hạn của luật định nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, tang vật chứng đã thu giữ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận:

Lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, trong khoảng thời gian từ ngày 31/3/2020 đến ngày 03/5/2020, Nguyễn Văn Ch và Nguyễn Văn C đã rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Trong đó: Ch tham gia trộm 07 vụ (có 05 vụ tham gia cùng C), tổng giá trị tài sản Ch chiếm đoạt xe máy của những người bị hại là 315.174.700 đồng, thu lời bất chính 13.015.000 đồng. C tham gia trộm 05 vụ cùng Ch, tổng giá trị tài sản C chiếm đoạt xe máy của những người bị hại là 286.574.700 đồng, thu lời bất chính 22.500.000đ ồng. Cụ thể, các bị cáo chiếm đoạt của những người bị hại sau:

1. Bị cáo Ch và C chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Thu H 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu đỏ đen, BKS: 19S1-316.96, số khung RLHJF7925KZ022249, số máy JA89E0114534 trị giá 38.000.000 đồng;

2. Bị cáo Ch và C chiếm đoạt của anh Lê Trọng Ng 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu cam, đen, bạc BKS: 89F1-441.75, số khung 3910KY187274, số máy JA39E1044988 trị giá 18.000.000 đồng.

3. Bị cáo Ch và C chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn S 01 chiếc xe Honda Vision, màu đen xám, BKS : 29T1 – 911.11, số khung 5830KY103809, số máy JF86E2168232, trị giá 28.500.000 đồng.

4. Bị cáo Ch chiếm đoạt của chị Nguyễn Kim T 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision, màu xanh, BKS: 36B5 – 558.10, số khung 5810GY109664, số máy JF66E0109680, trị giá 23.000.000 đồng.

5. Bị cáo Ch và C chiếm đoạt của chị Trần Thu Tr 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, đen, bạc BKS: 29M1-612.88, số khung 3906HI416427, số máy JA39E0391582, trị giá 15.000.000 đồng.

6. Bị cáo Ch chiếm đoạt của anh Nguyễn Khánh T 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS: 18P1 – 896.33, số khung RLHJA3906HY038352, số máy JA39E0038413, trị giá 13.600.000 đồng.

7. Bị cáo Ch và C chiếm đoạt của anh Phan Đình B 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda AirBalde màu đỏ đen BKS: 34E1-198.35, số khung 6301FZ611483, số máy JF63E1131317, trị giá 33.074.700 đồng.

8. Bị cáo Ch và C chiếm đoạt của chị Đinh Thị Th 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead, màu xám BKS : 29Y1-202.46, số khung 117262, số máy 0207134, trị giá 21.000.000 đồng.

9. Bị cáo Ch và C chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị L 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH 125i, màu đen BKS: 29Y3-557.91, số khung 950XKY010099, số máy JF95E0010206, trị giá 85.000.000 đồng.

10. Bị cáo Ch và C chiếm đoạt của chị Cao Lương Vân H 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH Mode màu xanh, nâu, BKS: 29Y3 – 227.27 số khung 080735, số máy 0080770 trị giá 40.000.000 đồng.

Hành vi lét lút trộm cắp chiếm đoạt tài sản của người bị hại, giá trị tài sản chiếm đoạt của các bị cáo Ch và C đã thỏa mãn dấu hiệu của tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật hình sự (Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng) Tòa án nhân dân quận Hà Đông đã xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự xã hội. Hành vi của các bị cáo cần áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

- Bị cáo Nguyễn Văn C đã bị 02 lần xét xử về tội Trộm cắp tài sản, 01 lần bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, chưa được xóa án

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi của các bị cáo là cố ý lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội tại địa phương.

Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp sơ thẩm bị cáo không nhận tội nên không áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có việc làm, không có thu nhập, tham gia trộm 05 vụ lấy tiền thu lời bất chính để làm nguồn sống chính cho bản thân nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội C nghiệp”, “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định khoản điểm b, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, cấp sơ thẩm áp dụng là đúng.

Tuy nhiên trước đó bị cáo C bị Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm xét xử tại Bản án hình sự sơ thẩm số 211/2017/HSST ngày 27/9/2017 bị phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 01/11/2018, bị cáo chưa được xóa án tháng 3, 4, 5 năm 2020 bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự, cấp sơ thẩm xác định đã xóa án là không chính xác cần phải rút kinh nghiệm.

Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo không khai nhận hành vi phạm tội.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đây là tình tiết mới, tuy nhiên mức án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp. Vì vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 32/2021/HS-ST ngày 29 tháng 1 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, TP. Hà Nội.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C về phần hình phạt Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2021/HS-ST ngày 29 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội về áp dụng điều luật.

- Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm b, g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn C.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 09 năm tù về tội Trộm cắp tài sản,thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ tạm giam 07/5/2020.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm 200.000đ.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 303/2021/HS-PT ngày 23/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:303/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;