Bản án 286/2019/DS-PT ngày 22/11/2019 về tranh chấp đòi lại tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH T

BẢN ÁN 286/2019/DS-PT NGÀY 22/11/2019 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN

Trong ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 351/2019/TLPT-DS ngày 29 tháng 10 năm 2019 về việc “Tranh chấp đòi lại tài sản”.

Do Bản án Dân sự sơ thẩm số: 37/2019/DS-ST ngày 24/09/2019 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh T bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 327/2019/QĐ-PT ngày 06 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Ngọc T1, sinh năm 1986 và chị Huỳnh Kim L2, sinh năm 1986; cùng cư trú tại: Số 90/7B, hẻm 35 Đường P, ấp L, xã L1, huyện H, tỉnh T.

Bị đơn: Bà Tô Kim H1, sinh năm 1956; cư trú tại: Số 89/6A, hẻm 35 Đường P, ấp L, xã L1, huyện H, tỉnh T.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Phi N, sinh năm 1986 và chị Lê Thị Mỹ H2, sinh năm 1990; cùng cư trú tại: Số 89/6A, hẻm 35 Đường P, ấp L, xã L1, huyện H, tỉnh T.

Ngưi kháng cáo: Nguyên đơn – anh Nguyễn Ngọc T1, chị Huỳnh Kim L2; Bị đơn: Bà Tô Kim H1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 03/5/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là anh Nguyễn Ngọc T1 trình bày:

Năm 2016, vợ chồng anh nhận chuyển nhượng phần đất của anh Ngô Ngọc G tọa lạc tại ấp L, xã L1, huyện H, tỉnh T có diện tích 115,3m2, giá trị chuyển nhượng là 50.000.000 đồng. Đến ngày 07/11/2016, vợ chồng anh được Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành CE 233344, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS05239, diện tích 115,3m2, thửa số 437, tờ bản đồ số 14. Khi nhận chuyển nhượng đất thì anh biết bà H1 đang ở nhờ trên đất của anh G trước đó. Do thấy bà H1 hoàn cảnh khó khăn nên anh cho bà H1 tiếp tục ở nhờ, khi nào anh cần thì yêu cầu bà H1 di dời tài sản để trả đất cho anh. Nay vợ chồng anh yêu cầu bà H1 di dời tài sản, đồ dùng sinh hoạt trong gia đình đi nơi khác để trả lại cho anh phần đất có chiều ngang khoảng 4m x dài 12m. Nếu trước khi xét xử mà bà H1 di dời thì vợ chồng anh sẽ hỗ trợ từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

* Nguyên đơn chị Huỳnh Kim L2 trình bày:

Chị hoàn toàn thống nhất với ý kiến, nội dung trình bày và yêu cầu của anh T1.

* Tại các biên bản lấy lời khai, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn bà Tô Kim H1 trình bày:

Vào năm 2005, bà được ông Ngô Văn K (Cha anh Ngô Ngọc G) cho bà 48 m2 đất (4m x 12m) để Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh T xây nhà Đại đoàn kết cho bà và bà sinh sống trên phần đất này từ năm 2005 đến nay. Việc ông K cho bà đất có làm giấy tay nhưng giấy này đã bị thất lạc. Năm 2016, khi Ủy ban nhân dân xã L1 mời bà lên làm việc thì bà mới biết anh T1, chị L2 đã nhận chuyển nhượng đất của anh Ngô Ngọc G, trong đó có cả đất của bà đang ở.

Nay bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của anh T1, chị L2 vì ngoài phần đất mà bà đang ở hiện tại thì gia đình bà không còn bất kỳ chỗ ở nào khác; đất gia đình bà đang ở là phần đất mà trước đây ông Ngô Văn K đã cho bà; nếu anh T1, chị L2 muốn bà di dời thì phải hỗ trợ cho bà tiền xây nhà 70.000.000 đồng và tiền hỗ trợ di dời 80.000.000 đồng, tổng cộng 150.000.000 đồng, nếu không đồng ý thì bà không di dời.

* Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Phi N, chị Lê Thị Mỹ H2 trình bày:

Anh N, chị H2 hoàn toàn thống nhất với ý kiến, nội dung trình bày và yêu cầu của bà H1.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 37/2019/DS-ST ngày 24/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh T đã quyết định: Căn cứ Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Chp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Ngọc T1, chị Huỳnh Kim L2 đối với bà Tô Kim H1 về việc đòi lại tài sản.

- Buộc bà Tô Kim H1 có nghĩa vụ giao lại cho anh Nguyễn Ngọc T1, chị Huỳnh Kim L2 số tiền 288.000.000 đồng (Hai trăm tám mươi tám triệu).

- Bà Tô Kim H1 được quyền sử dụng 01 phần đất ở tại nông thôn có diện tích 48 m2, tại thửa số 437, tờ bản đồ số 14, đất tọa lạc tại ấp L, xã L1, huyện H, tỉnh T, có tứ cận:

Hướng Đông giáp nhà, đất anh T1, chị L2, thửa số 437, dài 10m. Hướng Tây giáp thửa số 132, dài 10m.

Hướng Nam giáp đường 10m, dài 4,8m. Hướng Bắc giáp thửa số 87, 88, dài 4,8m.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự, quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 04/10/2019, nguyên đơn– anh Nguyễn Ngọc T1 và chị Huỳnh Kim L2 có đơn kháng cáo với nội dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, buộc bà H1 di dời toàn bộ tài sản trên đất và trả lại đất cho vợ chồng anh T1 chị L2, anh T1 và chị L2 đồng ý thanh toán cho bà H1 giá trị căn nhà trên đất số tiền 23.334.654 đồng cho bà H1.

Ngày 08/10/2019, bị đơn- bà Tô Kim H1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu được công nhận quyền sử dụng phần đất diện tích 48 m2 tha 437, tờ bản đồ số 14 tọa lạc tại ấp L, xã L1, huyện H, tỉnh T mà không phải có nghĩa vụ thanh toán tiền lại cho nguyên đơn.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thẩm phán và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành của người tham gia tố tụng thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Ngọc T1, chị Huỳnh Kim L2 và bà Tô Kim H1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Theo bà Tô Kim H1 trình bày: Năm 2005, do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên bà H1 được ông Ngô Văn K (cha của anh Ngô Ngọc G) cho phần đất tranh chấp là 48 m2 để Ủy ban nhân dân xã L1 xây dựng nhà đại đoàn kết cho bà nhưng giấy tay chứng minh ông K có cho đất cho bà thì đã thất lạc nên bà H1 không cung cấp được cho Tòa án.

[2] Năm 2016, anh Nguyễn Ngọc T1 và chị Huỳnh Kim L2 nhận chuyển nhượng của anh Ngô Ngọc G (Con của ông Ngô Văn K) phần đất có diện tích 115,3 m2 tọa lạc tại ấp L, xã L1, huyện H, tỉnh T, giá trị chuyển nhượng là 50.000.000 đồng. Ngày 07/11/2016 anh T1 và chị L2 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS05239. Khi nhận chuyển nhượng phần đất trên thì trên đất đã có căn nhà của bà H1.

[3] Xét kháng cáo của bà Tô Kim H1 yêu cầu được công nhận quyền sử dụng diện tích [3.1] Nguồn gốc phần đất tranh chấp là của gia tộc ông Ngô Văn K, năm 1993 gia đình ông K thống nhất cho anh Ngô Ngọc G được quyền quản lý sử dụng. Sau đó, anh G chuyển nhượng cho anh T1 và chị L2. Như vậy, từ năm 1993 anh Ngô Ngọc G là người quản lý sử dụng hợp pháp phần đất tranh chấp chứ không phải ông Ngô Văn K (Cha của anh G) quản lý, sử dụng.

[3.2] Tại các biên bản xác minh ngày 01/7/2019 (BL 44-45) ông K trình bày “năm 2005 thì Ủy ban nhân dân xã L1 có đến vận động gia đình ông cho đất để xây dựng nhà đại đoàn kết cho bà H1 nhưng vợ và các con của ông không đồng ý nên sự việc cho đất không thành” và anh Ngô Ngọc G trình bày “năm 2005 anh thấy hoàn cảnh gia đình bà H1 khó khăn nên anh có cho bà H1 ở nhờ trên đất đến năm 2010 thì phải trả đất lại cho anh nhưng đến năm 2010 thì bà H1 không đồng ý trả đất mà ở luôn trên đất cho đến nay”. Ngoài ra, bà H1 cũng không cung cấp được cho Tòa án giấy tay ông K đồng ý cho đất như lời bà H1 trình bày. Do đó, lời trình bày của bà H1 đã được gia đình ông K cho đất là không có cơ sở chấp nhận. Mà có căn cứ xác định anh T1 và chị L2 đã chuyển nhượng hợp pháp phần đất tranh chấp từ người có quyền quản lý và sử dụng phần đất trước đó là anh Ngô Ngọc G. Anh T1 và chị L2 cũng đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất trên nên anh T1 và chị L2 là người sử dụng hợp pháp của phần đất diện tích 48 m2 mà bà H1 đang quản lý sử dụng. Ngoài ra, bà H1 cho rằng bà đã được ông K viết giấy tay cho đất và sinh sống trên đất từ năm 2005 cho đến nay nhưng bà H1 không yêu cầu ông K thực hiện thủ tục sang tên quyền sử dụng đất cho bà H1 và bà H1 cũng không được cơ quan có thẩm quyền nào xác nhận quyền quản lý sử dụng phần đất tranh chấp cho bà H1.

[4] Xét kháng cáo của anh Nguyễn Ngọc T1 và chị Huỳnh Kim L2 thấy rằng: Anh T1 và chị L2 là người có quyền quản lý sử dụng hợp pháp phần đất tranh chấp, cấp sơ thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu đòi tài sản của anh T1 chị L2 và buộc bà H1 có trách nhiệm trả lại cho anh T1 chị L2 giá trị của phần đất tranh chấp số tiền 288.000.000 đồng. Xét thấy bà H1 là người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn được Ủy ban nhân dân xã L1, huyện H vận động những hộ dân sống xung quanh xây dựng nhà đại đoàn kết cho bà H1. Như vậy bà H1 hoàn toàn không có khả năng trả lại giá trị bằng tiền đối với phần đất tranh chấp cho anh T1 và chị L2. Ngoài ra, hiện nay gia đình của anh T1 chị L2 có 05 người đang cùng chung sống trên phần đất có diện tích 43,3 m2 còn lại của gia đình anh T1 (Sau khi anh T1 và chị L2 đã hiến 24 m2 đt trong phần đất chuyển nhượng của anh G làm đường giao thông nông thôn), nếu giao cho bà H1 quyền quản lý sử dụng diện tích 48 m2 thì diện tích 43,3 m2 còn lại của anh T1 chị L2 không đảm bảo điều kiện sinh sống cho 05 người trong gia đình, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng anh T1 chị L2. Do đó, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Ngọc T1 và chị Huỳnh Kim L2, buộc bà H1 trả lại phần đất có diện tích 48 m2, tại thửa số 437, tờ bản đồ số 14, đất tọa lạc tại ấp L, xã L1, huyện H, tỉnh T cho anh T1 chị L2.

Đối với anh Nguyễn Phi N, chị Lê Thị Mỹ H2 là những người cùng sống chung với bà H1 trên căn nhà và đất nên cần buộc bà H1, anh N và chị H2 cùng có nghĩa vụ tháo dở di dời tài sản trên đất để trả lại diện tích 48 m2 nói trên cho nguyên đơn; đồng thời anh T1 chị L2 có nghĩa vụ trả cho bà H1 giá trị căn nhà là 23.334.654 đồng theo biên bản định giá ngày 17/01/2019 (BL54). Tại phiên tòa phúc thẩm, anh T1 chị L2 tự nguyện hỗ trợ thêm cho bà H1 số tiền 20.000.000 đồng, tổng cộng 2 khoản là 43.334.654 đồng (20.000.000 đồng + 23.334.654 đồng) nên cần ghi nhận.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà Tô Kim H1, có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Ngọc T1 và chị Huỳnh Kim L2, cần sửa bản án sơ thẩm theo hướng nhận định nêu trên.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên cần sửa án tiền phí dân sự sơ thẩm.

Về án phí dân sự phúc thẩm: Anh T1, chị L2 và bà H1 không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm theo khoản 2 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 và khoản 2 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 166 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Tô Kim H1; chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Ngọc T1 và chị Huỳnh Kim L2;

Sa bản án sơ thẩm. 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Ngọc T1, chị Huỳnh Kim L2 đối với bà Tô Kim H1 về việc đòi lại tài sản.

2. Buộc bà Tô Kim H1, anh Nguyễn Phi N và chị Lê Thị Mỹ H2 phải tháo dở và di dời căn nhà 4c trên đất móng gạch và đá 4x6, nền gạch men, tường xây gạch quét vôi, mái tol có diện tích 04 m x 5,4 m = 21,6 m2 và phần nhà sau có diện tích 2,4 m x 32,04 m2 và phần mái che cột bê tông xi măng, kèo đòn tay sắt, mái tol có diện tích 2,8m x 4,5 m= 12.6 m và giao trả lại cho anh Nguyễn Ngọc T1, chị Huỳnh Kim L2 được quyền sử dụng phần đất diện tích 48 m2, tại thửa số 437, tờ bản đồ số 14, đất tọa lạc tại ấp L, xã L1, huyện H, tỉnh T, có tứ cận: Hướng Đông giáp nhà, đất anh T1, chị L2, thửa số 437, dài 10m. Hướng Tây giáp thửa số 132, dài 10m. Hướng Nam giáp đường 10m, dài 4,8m. Hướng Bắc giáp thửa số 87, 88, dài 4,8m.

(Đất nằm trong phần đất diện tích 115,3 m2, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 05239 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T cấp ngày 07/11/2016 cho anh Nguyễn Ngọc T1 và chị Huỳnh Kim L2 đứng tên)

3. Bà Tô Kim H1, anh Nguyễn Phi N và chị Lê Thị Mỹ H2 được lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm ngày 22/11/2019.

4. Buộc anh Nguyễn Ngọc T1, chị Huỳnh Kim L2 có trách nhiệm trả cho bà Tô Kim H1 số tiền 23.334.654 đồng.

Ghi nhận anh T1 và chị L2 tự nguyện hỗ trợ cho bà H1 số tiền 20.000.000 đồng. Tổng cộng 2 khoản trên là 43.334.654 đồng (Bốn mươi ba triệu ba trăm ba mươi bốn nghìn sáu trăm năm mươi bốn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

5. Về chi phí tố tụng:

Về chi phí đo đạc, định giá: Ghi nhận anh Nguyễn Ngọc T1, chị Huỳnh Kim L2 tự nguyện chịu 2.000.000 đồng chi phí đo đạc, định giá (Đã nộp xong).

6. Về án phí:

Án phí dân sự sơ thẩm:

Min án phí dân sự cho bà Tô Kim H1.

Anh Nguyễn Ngọc T1, chị Huỳnh Kim L2 phải chịu 2.166.700 đồng (làm tròn số) nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm anh T1 và chị L2 đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0019828 ngày 03/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh T. Anh T1 và chị L2 còn phải nộp 1.866.700 (Một triệu tám trăm sáu mươi sáu nghìn bảy trăm) đồng (Làm tròn số).

Án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà Tô Kim H1.

Anh T1 và chị L2 không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho cho anh T1 và chị L2 số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 008070 ngày 04/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh T.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Ðiều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Ðiều 30 Luật Thi hành án dân sự.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 286/2019/DS-PT ngày 22/11/2019 về tranh chấp đòi lại tài sản

Số hiệu:286/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;