Bản án 25/2017/HSPT ngày 26/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 25/2017/HSPT NGÀY 26/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26/12/2017 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hòa Bình mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2017/HSPT ngày 09/11/2017 đối với bị cáo Quách Minh T, do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2017/HSST ngày 22/09/2017 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình.

Bị cáo bị kháng nghị: Quách Minh T, sinh năm 1989;

Nơi cư trú: xóm Đ, xã T, huyện L, Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 8/12; dân tộc: Mường;

Con ông Quách Văn N bà Bùi Thị C; có vợ là Bùi Thị N; có 01 con sinh năm 2014;

Tiền sự: Không; tiền án: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/6/2017 đến ngày 22/9/2017 được trả tự do tại phiên tòa, hiện đang tại ngoại. Có mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác không kháng cáo và không liên quan đến kháng nghị nên Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập gồm: Người bị hại ông Quách Văn T, Ông Bùi Hoàng D; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Quách Văn Đ, chị Bùi Thị Ng, chị Bùi Thị H, bà Đỗ Thị L, ông Bùi Văn N, bà Bùi Thị E.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 10 giờ, ngày 18/6/2017, Quách Minh T sinh năm 1989, trú tại: xóm Đ, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình đang ở nhà bố mẹ đẻ là Quách Văn N có địa chỉ: xóm C, xã L, huyện L, tỉnh Hòa Bình. T thấy nhà ông Bùi Hoàng D là hàng xóm đóng cửa không có ai ở nhà nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản.T đi vòng ra phía sau nhà ông D, quan sát thấy cửa đóng cài chốt ngang bên trong, T đã dùng tay cậy mở cửa. Sau khi cửa mở, T đi vào nhà và đi thẳng vào phòng ngủ của vợ chồng ông D, T quan sát thấy một tủ gỗ đứng khép hờ không khóa, ngăn trên cùng có một túi vải, bên trong có ví da màu đen loại ví nữ có tiền bên trong, T đã cất ví vào người rồi lẻn ra khỏi nhà ông D. T đi bộ về nhà bố đẻ rồi lấy xe máy BKS 28N1-11682 điều khiển về nhà mình. Đến 19 giờ cùng ngày, T mở ví để kiểm tra thì thấy trong ví có số tiền là 45.070.000 đồng (Bốn mươi lăm triệu không trăm bảy mươi nghìn đồng); một giấy phép lái xe mang tên Bùi Thị Hg, trú tại xóm C, xã L, huyện L, tỉnh Hòa Bình và một số hóa đơn. T đã mang giấy tờ và số hóa đơn đó vứt xuống sông B. Sau đó dùng số tiền trộm được đi mua một số đồ điện tại cửa hàng TL có địa chỉ: phố L, xã V, huyện L, tỉnh Hòa Bình với tổng số tiền là 11.050.000 đồng. Số tiền còn lại T trả công thợ xây nhà cho ông Bùi Văn N hết 3.000.000 đồng, đưa cho mẹ vợ là bà Bùi Thị E 13.000.000 đồng. Còn lại 18.020.000 đồng T tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ 2: Vào khoảng 08 giờ, ngày 27/6/2017, Quách Minh T điều khiển xe mô tô BKS 28N1-11682 đi trên Quốc lộ 12B theo hướng VB-TM, khi đi qua quán bán hàng tạp hóa ở cạnh đường của nhà anh Quách Văn T, trú tại: xóm C, xã L, huyện L, tỉnh Hòa Bình, T quan sát thấy quán đóng cửa không có ai trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, ngay sau đó T điều khiển xe đi qua cách quán khoảng 40m, rồi đi ra cửa sau quán, thấy cửa chốt bên trong bằng thanh sắt cài ngang nên T dùng tay cậy phá. Mở được cửa T vào trong quán lục soát, phát hiện thấy trong hòm tôn có số tiền mặt là 1.274.000đ (một triệu hai trăm bảy mươi tư nghìn đồng) và trên túi áo bên trong tủ có một sợi dây chuyền bạc. Sau khi trộm được tiền và dây chuyền bạc T đi ra cửa sau quán và thoát ra ngoài cách nhà ông T khoảng 100m thì bị Quách Văn Đ là con trai của ông T phát hiện nên T đã trả lại số tiền và sợi dây chuyền trộm cắp được rồi bỏ đi.

Ngày 28/6/2017 Quách Minh T đã đến công an huyện L đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội trộm cắp tài sản ngày 18/6/2017 tại nhà anh Bùi Hoàng D và ngày 27/6/2017 tại quán ông Quách Văn T.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 26/ĐG-HĐĐG ngày 30/6/2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện L kết luận: Sợi dây chuyền bằng kim loại có giá trị là 1.017.000đ (một triệu không trăm mười bảy nghìn đồng).

Như vậy tổng số tài sản mà Quách Minh T đã hai lần trộm cắp có giá trị là 47.361.000đ (Bốn mươi bảy triệu ba trăm sáu mươi mốt nghìn đồng)

Bản án sơ thẩm số 30/2017/HSST ngày 22/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình: Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 60 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Quách Minh T 12 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng. Thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Ngoài ra, Bản án còn tuyên về vật chứng, trách nhiệm dân sự, nghĩa vụ nộp án phí và tuyên quyền kháng cáo của bị cáo, người bị hại.

Ngày 17/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm số 30/2017/HSST ngày 22/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện L đối với bị cáo Quách Minh T về phần hình phạt theo hướng: Giữ nguyên tội danh và mức hình phạt, cải biện pháp chấp hành từ hình phạt tù cho hưởng án treo sang hình phạt tù. Đồng thời khắc phục vi phạm khoản 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự về việc không giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện L giám sát trong thời gian thử thách. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung kháng nghị. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình phát biểu quan điểm, đường lối xử lý vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Quách Minh T về tội Trộm cắp tài sản là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên việc Tòa án án nhân dân huyện L đã áp dụng Điều 60 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách 24 tháng là chưa mang tính giáo dục, răn đe. Do vậy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo để cải tạo bị cáo thành người tốt có ích cho xã hội.

Bị cáo Quách Minh T trình bày tại phiên tòa: Do bị cáo không nghe lời bố mẹ đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản để phục vụ cho mục đích cá nhân. Bị cáo nhận thức được việc làm sai trái của mình, việc kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình là đúng.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã xác định, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 18/6/2017 tại nhà anh Bùi Hoàng D, bị cáo đã trộm cắp 45.070.000 đồng (Bốn mươi lăm triệu không trăm bảy mươi nghìn đồng); ngày 27/6/2017 tại quán ông Quách Văn T, bị cáo tiếp tục trộm 1.274.000đ (một triệu hai trăm bảy mươi tư nghìn đồng) và một sợi dây chuyền bạc có giá trị 1.017.000đ (một triệu không trăm mười bảy nghìn đồng).

Việc tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Quách Minh T theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự về tội Trộm cắp tài sản là có căn cứ đúng người, đúng tội.

[2] Xét nội dung kháng nghị yêu cầu cải biện pháp chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo sang hình phạt tù đối với bị cáo Quách Minh T, Hội đồng xét xử xét thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Trong một thời gian ngắn từ 18/6/2017 đến ngày 27/6/2017 bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp với tổng giá trị là 47.361.000 đồng.

Bị cáo sau khi phạm tội đã cùng với gia đình khắc phục bồi thường thiệt hại, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 60 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng là chưa đánh giá đúng tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo khi lượng hình, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện L đang có chiều hướng gia tăng. Do vậy cần chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình, áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo Quách Minh T để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 60 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Quách Minh T 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng nhưng không giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách là vi phạm khoản 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự, Điều 5 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Quách Minh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

1.Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình. Sửa bản án hình sự sơ thẩm 30/2017/HSST ngày 22/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình. Cụ thể:

Tuyên bố: bị cáo Quách Minh T phạm tội Trộm cắp tài sản. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Quách Minh T 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ 02 tháng 25 ngày tạm giữ, tạm giam.

2. Về án phí: Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 30/2017/HSST ngày 22/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (26/12/2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2017/HSPT ngày 26/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;