Bản án 22/2018/HS-ST ngày 17/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN H. PHÚ LỘC, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 22/2018/HS-ST NGÀY 17/07/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Lộc mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2018/TLST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2018/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2018, đối với bị cáo:

Hoàng Trọng P, sinh ngày 30/3/1997 tại huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; giới tính: Nam; tên gọi khác: X; trú tại: Thôn A, xã L, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; con ông Hoàng Trọng T và bà Lê Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà Huỳnh Thị S, sinh năm 1941. Trú tại: Thôn A, xã L, huyện P,tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Thị Minh T, sinh năm 1973. Trú tại: Đường H, phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

2. Bà Phan Thị T, sinh năm 1971. Trú tại: Thôn X, xã L, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế,vắng mặt.

3. Ông Nguyễn Duy T, sinh năm 1975. Trú tại: Đường T, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

4. Anh Hoàng Trọng L, sinh năm 1994. Trú tại: Thôn A, xã L, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Hoàng Trọng T, sinh năm 1968. Trú tại: Thôn A, xã L, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

2. Bà Lê Thị T, sinh năm 1966. Trú tại: Thôn A, xã L, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 21/10/2017, Hoàng Trọng P đột nhập vào nhà của bà Huỳnh Thị S (bà nội của P) ở thôn A, xã L, huyện P, dùng chìa khóa (do bà S đưa cho P quản lý) mở cửa khóa tủ gỗ (sập gỗ) để lấy trộm tài sản gồm: 01 sợi dây chuyền kim loại vàng 24K có mặt tượng phật; 02 chiếc nhẫn kim loại vàng 24K; 01 sợi dây chuyền kim loại vàng 18K; 01 đôi bông tai kim loại vàng 18K; 01 chiếc nhẫn kim loại vàng 18K có đính hạt ngọc màu đỏ và 01 nhẫn kimloại vàng 18K có đính hạt ngọc màu đỏ.

Sau khi trộm cắp được tài sản, P điều khiển xe môtô 75K1-292.81 đi lên thành phố H để tiêu thụ và bán cho một số người sau:

Bán cho chị Phan Thị T chủ cửa hàng vàng “K” 01 chiếc nhẫn kim loại vàng 18K, trọng lượng 1,41 chỉ với số tiền 2.000.000đ; Bán cho chị Lê Thị Minh T chủ cửa hàng vàng “T” 01 sợi dây chuyền kim loại vàng 18K, trọng lượng 03 chỉ, với số tiền 2.800.000đ; Bán cho anh Nguyễn Duy T chủ cửa hàng vàng “D”01 sợi dây chuyền kim loại vàng 24K, trọng lượng 04 chỉ với số tiền12.500.000đ. Số vàng còn lại P chưa tiêu thụ được. Sau khi bán được một số kim loại vàng, P sử dụng tiền vào việc tiêu xài cá nhân, còn lại 12.900.000đ. Riêng đối với 02 chiếc nhẫn kim loại vàng 24K, trọng lượng 02 chỉ, P đã đánh rơi trên đường đưa đi tiêu thụ.

Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, bà S phát hiện bị mất tài sản nên bà S đã báo cho cơ quan Công an huyện Phú Lộc điều tra làm rõ; Hoàng Trọng P sợ nên đã khai báo, trả lại số tiền do bán vàng mà có và số vàng chưa tiêu thụ được cho bà Sáo.

Về vật chứng của vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện PhúLộc tạm giữ gồm:

Tiền ngân hành Nhà nước Việt Nam phát hành: 12.900.000đ; 01chiếc nhẫn kim loại vàng 18K, trọng lượng 1,41chỉ; 01 mặt tượng phật ngọc hình bầu dục, có viền kim loại vàng, trọng lượng 0,99 chỉ; 01 chiếc nhẫn kim loại vàng 18K, trọng lượng 0,12 chỉ; 01 (một) đôi bông tai kim loại vàng 18K, trọng lượng 0,5 chỉ; 01 chiếc xe môtô 75K1-292.8.

Ngày 06/12/2017, Sở khoa học Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế đã có kết luận xác định: 01 (một) chiếc nhẫn kim loại vàng 18K, trọng lượng 1,41 chỉ, 01 (một) đôi bông tai kim loại vàng 18K, trọng lượng 0,5 chỉ, 01 (một) chiếc nhẫn kim loại vàng 18K, trọng lượng 0,12 chỉ, chất lượng vàng đều 48%; 01 (một) mặt tượng phật ngọc màu trắng xanh hình bầu dục, có viền kim loại vàng bao quanh, trọng lượng 0,99 chỉ, chất lượng vàng 97% (tượng phật ngọc màu trắng xanh hình bầu dục đã qua sử dụng không còn giá trị).

Ngày 11/01/2017 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế đã có kết luận số 03/HĐĐG về việc xác định:01(một) sợi dây chuyền kim loại vàng 24K, trọng lượng 4,99 chỉ (bao gồm viền kim loại vàng bao quanh tượng phật ngọc màu trắng xanh hình bầu dục, trọng lượng 0,99 chỉ), trị giá 17.658.850đ; 02 (hai) chiếc nhẫn kim loại vàng 24K, trọng lượng 02 chỉ, trị giá 7.063.540đ; 01 (một) sợi dây chuyền kim loại màu vàng 18K, trọng lượng 03 chỉ, trị giá: 7.644.570đ; 01 (một) đôi bông tai kim loại vàng 18K, trọng lượng 0,5 chỉ (có gắn hạt ngọc màu xanh), trị giá 630.480đ; 01 (một) chiếc nhẫn kim loại vàng 18K (loại kích thước trẻ em), trọng lượng0,12 chỉ, trị giá 151.315đ; 01 (một) chiếc nhẫn kim loại vàng 18K, trọng lượng 1,41 chỉ (có đính hạt ngọc màu đỏ), trị giá 1.777.954đ. Tổng cộng là 12,02 chỉ vàng, trị giá 34.926.709đ.

Ngày 26/4/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Lộc raQuyết định xử lý vật chứng số 14/QĐ trả lại toàn bộ số tiền và vàng đã thu hồi lại được nêu trên cho bà Huỳnh Thị S; trả lại xe môtô 75K1- 292.81 cho anh Hoàng Trọng L là chủ sở hữu tài sản.

Về trách nhiệm dân sự:

01 (một) chiếc nhẫn kim loại vàng 18K, trọng lượng 1,41 chỉ bị cáo đã bán nhưng sau đó đã mua lại và đưa về trả cho bà S; Đối với 01 sợi dây chuyền kim loại vàng 18K, trọng lượng 03 chỉ và 01 sợi dây chuyền kim loại vàng 24K, trọng lượng 04 chỉ P đã bán cho các cửa hàng mua bán vàng, các cửa hàng mua bán vàng này đã nung nấukhông thu hồi lại được và số vàng đánh rơi, bị cáo đã bồi thường và trả số tiền 12.900.000đ cho bà Huỳnh Thị S.

Tại phiên tòa bị hại là bà Huỳnh Thị S không yêu cầu bồi thường gì thêm, có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự, tha thiết nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo trong trường hợp kết tội bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 21/QĐ-KSĐT ngày 07/6/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lộc truy tố bị cáo Hoàng Trọng P về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, đề  nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1, khoản2 Điều 51, của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Trọng P từ 06 đến 09 tháng tù.

Đối với các chị Phan Thị T, Lê Thị Minh T và anh Nguyễn Duy T là những người đã mua vàng do của bị cáo trộm cắp được đem bán. Tuy nhiên, những người này không biết đó là tài sản do Phúc trộm cắp mà có nên không có cơ sở để xử lý.

Đối với anh Hoàng Trọng L là người đã cho bị cáo Hoàng Trọng P mượn xe môtô 75K1 - 292.81 nhưng khi cho mượn xe, anh L không biết P sử dụng xe môtô để làm phương tiên phạm tội nên không có cơ sở để xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Hoàng Trọng P khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã xác định, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được kiểm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đãđược tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Lộc, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủtục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi,quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là phù hợp quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tạiphiên tòa nhưng có lời khai trong hồ sơ vụ án. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lộc, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử cho công bố lời khai của người vắng mặt tại phiên tòa nên việc xét xử vụ án là đảm bảo quy định của pháp luật.

[2] Bị cáo Hoàng Trọng P đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 12 giờ 15 phút ngày 21/10/2017, tại thôn A, xã L, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế, Hoàng Trọng P đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, lén lút trộm cắp 12,02 chỉ vàng của bà Huỳnh Thị S, trị giá 34.926.709đ.

[3] Bị cáo Hoàng Trọng P là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của bị cáo là bị pháp luật cấm nhưng động cơ lười lao động, muốn có tiền để tiêu xài cá nhân, bị cáo lén lút trộm cắp tài sản của người khác có giá trị 34.926.709 đ nên đã cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản ” theoquy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Đối với đơn yêu cầu miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo của của bị hại theo quy định tại khoản 3 Điều 29 của Bộ luật hình sự năm 2015; Hội đồng xét xử xét thấy, hành vi vi phạm của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đếnquyền sở hữu tài sản của người khác nên cần phải xử xét xử theo quy định của pháp luật. Do vậy, cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 07/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lộc truy tố bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[4] Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của công dân được Nhà nước bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm một cách trái pháp luật đều phải bị xử lý. Song xuất phát từ động cơ vụ lợi, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác để bán lấytiền tiêu xài cá nhân. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sởhữu hợp pháp về tài sản của công dân mà còn gây mất trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.

[5] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Bị cáo Hoàng Trọng P không phạm vào tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng:

Bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Sau khi bị hại báo Công an huyện Phú Lộc, Hoàng Trọng P đã khai nhận về hành vi trộm cắp của mình. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này quy định tại các điểm b, i, s khoản, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, chưa lần nào vi phạm pháp luật.

[8] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo P có nghề nghiệp ổn định, nơi cứ trú rõ ràng, đủ điều kiện để áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự; không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 triệu đồng. Xét thấy bị cáo hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [10] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Ngày 26/4/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Lộc ra Quyết định xử lý vật chứng số 14/QĐ trả lại toàn bộ số tiền và vàng đã thu hồi lại được nêu trên cho bà Huỳnh Thị S là chủ sở hữu hợp pháp và trả lại xe môtô 75K1- 292.81 cho anh Hoàng Trọng L là chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp.

Tại phiên tòa không ai thắc mắc, khiếu nại và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về án phí: Bị cáo Hoàng Trọng P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Trọng P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Hoàng Trọng P 09 (chín) tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (17/7/2018).

Giao bị cáo Hoàng Trọng P cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện P, tỉnh ThừaThiên Huế giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ khoản 1 Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử buộc bị cáo Hoàng Trọng Phúc phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2018/HS-ST ngày 17/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:22/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Lộc - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;