Bản án 137/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 137/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 9 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 133/2021/HSST ngày 19 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 140/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Trương Thị Ngọc B, sinh năm 1986 tại tỉnh An Giang; đăng ký thường trú: ấp L, xã Kiến An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; tạm trú: Ấp Dòng Sỏi, xã An Tây, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn C và bà Trần Thị L; bị cáo có chồng là Dương Văn Đ và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Nguyễn Thị Bé T, sinh năm: 2000 tại Trà Vinh; đăng ký thường trú: Ấp N, xã Tân Hiệp, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh; tạm trú: Ấp Dòng Sỏi, xã An Tây, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh G và bà Thạch Thị Sa M; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Đoàn Quang T1, Sinh năm 1977 tại An Giang; đăng ký thường trú: Khóm B, phường Bình Đức, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang; tạm trú: Ấp Dòng Sỏi, xã An Tây, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn X (đã chết) và bà Lý Thị Hồng M1 (đã chết); bị cáo có vợ là Nguyễn Mộng C1, sinh năm 1979 và 01 con; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại, có mặt.

4. Trần Thị S, Sinh năm: 1981 tại Kiên Giang; đăng ký thường trú: ấp B, xã Bình Trị, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang; tạm trú: Ấp Kiến An, xã An Điền, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn K (đã chết) và bà Thị T2 (đã chết); tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, có mặt.

5. Hà Thị L1, Sinh năm 1959 tại Thái Nguyên; đăng ký thường trú: ấp TM, xã PT, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; tạm trú: Ấp Dòng Sỏi, xã An Tây, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn P (đã chết) và bà Lộc Thị P1 (đã chết); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

6. Nguyễn Đức L2, Sinh năm 1955 tại Đồng Nai; đăng ký thường trú: Ấp TM, xã PT, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; tạm trú: Ấp DS, xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng L3, (đã chết) và bà Trần Thị N (đã chết); bị cáo có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

7. Võ Thị Thu H, sinh năm 1984 tại An Giang; đăng ký thường trú: ấp ĐBT, xã VT, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang; tạm trú: Ấp DS, xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Hữu H1, sinh năm 1962 và bà Trần Thị L4, sinh năm 1960; bị cáo có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

8. Thị T3, sinh năm 1978 tại Kiên Giang; đăng ký thường trú: Ấp LS, xã B, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang; tạm trú: Ấp DS, xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Danh C, sinh năm 1952 và bà Thị B, sinh năm 1955; bị cáo có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

9. Trần Văn V, Sinh năm 1982 tại Kiên Giang; đăng ký thường trú: khu phố 4, phường TC, thành phố HT, tỉnh Kiên Giang; tạm trú: Ấp DS, xã AT, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn B1 (đã chết) và bà Lê Cẩm H2 (đã chết); tiền án, tiền sự: Không; cáo tại ngoại, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 00 phút ngày 16/02/2021 tại phòng số 8, nhà trọ ông Phát thuộc ấp Dòng Sỏi, xã An Tây, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, lực lượng Công an xã An Tây phát hiện bắt quả tang Trương Thị Ngọc B, Võ Thị Thu H, Nguyễn Đức L2, Hà Thị L1, Trần Thị S, Nguyễn Thị Bé T, Thị T3, Đoàn Quan T1 và Trần Văn V đang tham gia đánh bạc dưới hình thức bài binh 06 lá thắng thua bằng tiền nên lực lượng Công an tiến hành bắt giữ 09 đối tượng và thu giữ vật chứng:

- Số tiền trên chiếu bạc: 6.000.000đ (sáu triệu đồng);

- 02 (hai) bộ bài tây loại 52 lá đã qua sử dụng;

- Số tiền thu giữ trong người các đối tượng gồm: Nguyễn Thị Bé T 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng); Trần Thị S 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng); Đoàn Quan T1 1.060.000đ (một triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng).

Quá trình điều tra, Trương Thị Ngọc B, Võ Thị Thu H, Nguyễn Đức L2, Hà Thị L1, Trần Thị S, Nguyễn Thị Bé T, Thị T3, Đoàn Quang T1 và Trần Văn V khai nhận: B, L1, L2, H, T, T3, T1, V và cháu Hồ Thị Lin Đ (sinh ngày 18/9/2009, HKTT: Ấp K, xã Khánh Hòa, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang) cùng tạm trú tại nhà trọ ông Phát thuộc ấp Dòng Sỏi, xã An Tây, thị xã Bến Cát. Sang tạm trú tại nhà trọ Dương Văn Tuấn thuộc ấp Kiến An, xã An Điền, thị xã Bến Cát. L1 và L2, H và V sống chung với nhau như vợ chồng.

Khoảng 08 giờ ngày 16/02/2021, T và cháu Đ đến phòng trọ số 8 của B để chơi. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, Đ rủ B, T chơi đánh bài thắng thua bằng tiền, B và T đồng ý. B, T và cháu Đ thống nhất mỗi người góp 20.000 đồng đưa cháu Đ đi mua bài tây. Sau đó, T, B và cháu Đ chơi đánh bài binh 06 lá, mỗi ván đặt tiền từ 5.000 đồng đến 10.000 đồng do T làm cái. Khoảng 12 giờ cùng ngày, T1 đến tham gia đánh bạc thay T làm cái và lần lượt những người khác là H, T3, L2, L1, S và V vào tham gia chơi đánh bạc, mỗi ván đặt tiền từ 20.000 đồng đến 200.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, B, L1, L2, H, T, T3, T1, V, S và cháu Đ đang chơi đánh bài thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Cách thức chơi đánh bài bài binh 06 lá và quy định thắng thua như sau: Người làm cái dùng bộ bài tây 52 lá chia đều cho những người chơi, mỗi người có 06 lá bài. Người chơi sẽ sắp bài thành 02 chi, mỗi chi 03 lá bài. Cách tính điểm như sau: Các lá bài A, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 mỗi lá có số điểm tương ứng từ 1 đến 9; các lá bài 10, J, Q, K mỗi lá tính 0 điểm. Mỗi chi được tính bằng tổng số điểm của 03 lá bài, lớn nhất là ba tây (tổ hợp bất kỳ giữa ba lá J, Q, K), tiếp đến từ 9 điểm đến 1 điểm, còn 0 điểm là bù. Căn cứ vào số điểm tính được, người làm cái sẽ so sánh bài với từng người chơi để tính thắng thua, nếu người chơi thắng thì người làm cái trả tiền bằng số tiền đặt, còn người chơi thua thì người làm cái lấy hết số tiền đã đặt, tỉ lệ đặt cược là 1 : 1.

Số tiền đem theo dùng để đánh bạc, thắng thua và vai trò của từng người như sau:

- Trương Thị Ngọc B cho các bị can khác đánh bài tại phòng trọ của mình và sử dụng 870.000đ (tám trăm bảy mươi nghìn đồng) để đánh bạc. Đến khi bị bắt B thua 270.000đ (bốn trăm nghìn đồng), bị thu giữ 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) trên chiếu bạc.

- Nguyễn Thị Bé T đem theo 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) để đánh bạc. T làm cái được khoảng hơn 01 giờ thì T chuyển cho Triều làm cái, còn T tham gia đặt. Đến khi bị bắt T thắng 100.000đ (một trăm nghìn đồng), bị thu giữ 900.000đ (chín trăm triệu đồng) trên chiếu bạc và 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) trong người mục đích sử dụng đánh bạc.

- Đoàn Quang T1 đem theo 1.760.000đ (một triệu bảy trăm sáu mươi nghìn đồng) để đánh bạc. T1 thay T làm cái, đến khi bị bắt T1 thắng 1.000.000đ (một triệu đồng), bị thu giữ 1.700.000đ (một triệu bảy trăm nghìn đồng) trên chiếu bạc và 1.060.000đ (một triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng) trong người mục đích sử dụng đánh bạc.

- Trần Thị S đem theo 1.900.000đ (một triệu chín trăm nghìn đồng) nhưng chỉ lấy ra 700.000đ (sáu trăm nghìn đồng) sử dụng đánh bạc. Đến khi bị bắt S huề vốn, bị thu giữ 700.000đ (sáu trăm nghìn đồng) t rên chiếu bạc và 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng) trong người mục đích không sử dụng đánh bạc .

- Hà Thị L1 đem theo 250.000đ (hai trăm năm mươi nghìn đồng) sử dụng đánh bạc, đến khi bị bắt L1 thắng 350.000đ (ba trăm năm mươi nghìn đồng), bị thu giữ 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) trên chiếu bạc.

- Nguyễn Đức L2 đem theo 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) sử dụng đánh bạc, đến khi bị bắt L2 huề vốn, bị thu giữ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) trên chiếu bạc.

- Võ Thị Thu H đem theo 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) sử dụng đánh bạc, đến khi bị bắt H thua 100.000đ (một trăm nghìn đồng), bị thu giữ 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) trên chiếu bạc.

- Thị T3 đem theo 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) sử dụng đánh bạc, đến khi bị bắt T3 thua 100.000đ (một trăm nghìn đồng), bị thu giữ 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) trên chiếu bạc.

- Trần Văn V đem theo 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) sử dụng đánh bạc, đến khi bị bắt V huề vốn, bị thu giữ 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) trên chiếu bạc.

Như vậy, tổng số tiền các bị can sử dụng để đánh bạc là 7.760.000đ (bảy triệu bảy trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 135/QĐ-KSĐT ngày 19/7/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Trương Thị Ngọc B, Nguyễn Thị Bé T, Đoàn Quang T1, Trần Thị S, Hà Thị L1, Nguyễn Đức L2, Võ Thị Thu H, Thị T3 và Trần Văn V về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015;

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng nêu trên và không có ý kiến gì khác.

Tại phần tranh luận:

- Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát trình bày luận Giữ nguyên quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tại Cáo trạng số 135/QĐ-KSĐT ngày 19/7/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đối với các bị cáo;

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với các bị cáo:

Xử phạt bị cáo Trương Thị Ngọc B từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bé T từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Đoàn Quang T1 từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

Xử phạt bị cáo Trần Thị S từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Hà Thị L1 từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức L2 từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Võ Thị Thu H từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Thị T3 từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Xử phạt bị cáo Trần Văn V từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Các bị cáo không phát biểu ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đồng ý với quyết định truy tố, điều khoản áp dụng và xử lý vật chứng của đại diện Viện Kiểm sát.

Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, các bị cáo hứa sẽ không vi phạm nữa và sẽ cố gắng làm công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận:

Từ khoảng 10 giờ đến 14 giờ ngày 16/02/2021 tại phòng trọ của Trương Thị Ngọc B ở phòng số 8, nhà trọ ông Phát thuộc ấp Dòng Sỏi, xã An Tây, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Trương Thị Ngọc B, Võ Thị Thu H, Nguyễn Đức L2, Hà Thị L1, Trần Thị S, Nguyễn Thị Bé T, Thị T3, Đoàn Quang T1 và Trần Văn V có hành vi đánh bạc dưới hình thức bài binh 06 lá thắng thua bằng tiền, do T và T1 thay nhau làm cái, những người còn lại tham gia đặt tiền. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 7.760.000 đồng.

Số tiền từng bị cáo dùng để đánh bạc cụ thể như sau: Trương Thị Ngọc B số tiền 870.000 đồng; Nguyễn Thị Bé T 1.600.000 đồng; Đoàn Quang T1 2.760.000 đồng; Trần Thị S 700.000 đồng; Hà Thị L1 600.000 đồng; Nguyễn Đức L2 300.000 đồng; Võ Thị Thu H 300.000 đồng; Thị T3 300.000 đồng; Trần Văn V 200.000 đồng.

Do đó, hành vi mà các bị cáo Trương Thị Ngọc B, Nguyễn Thị Bé T, Đoàn Quang T1, Trần Thị S, Hà Thị L1, Nguyễn Đức L2, Võ Thị Thu H, Thị T3, Trần Văn V thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015.

Do đó, Cáo trạng số 135/CT-VKSBC ngày 19/7/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật; các bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến nếp sống văn minh, gây tác hại xấu đến trật tự công cộng và an toàn xã hội. Về nhận thức, các bị cáo hoàn toàn biết hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc là trái pháp luật nhưng vì ý thức xem thường pháp luật nên các bị cáo đã cố tình thực hiện. Do đó, cần phải có một mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của các bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Các bị cáo tham gia đánh bạc với tính chất đồng phạm giản đơn, cùng tham gia thực hiện nên xét về tính chất thì các bị cáo có vai trò tương đương nhau nhưng số tiền dùng để đánh bạc khác nhau nên phải chịu mức hình phạt tương ứng;

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là: phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Đối chiếu hành vi phạm tội của các bị cáo với quy định của pháp luật, đồng thời có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt thật nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Đối với cháu Hồ Thị Lin Đ, sinh ngày 18/9/2009, do cháu Đ chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không xử lý trách nhiệm hình sự cháu Đ về hành vi đánh bạc.

Từ các nhận định trên, xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ và phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy phương tiện các bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội là 02 bộ bài tây loại 52 lá đã qua sử dụng.

Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: Số tiền 7.760.000 đồng do các bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội.

Trả lại bị cáo Trần Thị S số tiền thu giữ là 1.200.000 đồng do số tiền này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Trương Thị Ngọc B, Nguyễn Thị Bé T, Đoàn Quang T1, Trần Thị S, Hà Thị L1, Nguyễn Đức L2, Võ Thị Thu H, Thị T3, Trần Văn V phạm tội: “Đánh bạc”;

2. Về hình phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với các bị cáo:

- Xử phạt bị cáo Trương Thị Ngọc B 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bé T 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Đoàn Quang T1 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Trần Thị S 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Hà Thị L1 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng)..

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức L2 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Võ Thị Thu H 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Thị T3 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Trần Văn V 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

3. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 02 bộ bài tây loại 52 lá đã qua sử dụng.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/9/2021 giữa Chi cục Thi hàn hán dân sự thị xã Bến Cát và công an thị xã Bến Cát).

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 7.760.000 đồng (bảy triệu bảy trăm sáu mươi nghìn đồng).

Trả lại bị cáo Trần Thị S số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng).

(Theo lệnh thanh toán ngày 06/9/2021, số tài khoản 5503203000013 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát – tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Bến Cát).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 137/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:137/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;