TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH N
BẢN ÁN 18/2020/HSST NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 07/05/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 18/2020/HSST ngày 22/04/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 04 năm 2020, đối với các bị cáo:
1. Bùi Hải C (Tên gọi khác không), sinh năm 1977; tại xã X, huyện V, tỉnh N; trú tại thôn V, xã X, huyện V, tỉnh N; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Hải S và bà Hà Thị S; vợ Nguyễn Thị Kim H, và có 03 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2012; tiền án; tiền sự: Không; bị cáo không bị tạm giam, tạm giữ ngày nào, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Tạ Ngọc L (Tên gọi khác không), sinh năm 1962; tại xã K, huyện K, tỉnh N; trú tại số nhà 9, ngõ 2, đường N, phố T, phường B, thành phố N, tỉnh N; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Quang V (Liệt sỹ) và bà Phạm Thị D; vợ Nguyễn Lan H, và có 02 con, lớn sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 1996; tiền án; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 09/02/2020 đến ngày 12/02/2020. Được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3. Khương Văn L1 (Tên gọi khác không), sinh năm 1971; tại xã T, huyện N, tỉnh Đ; trú tại số nhà 2, ngõ 44, đường Đ, phường Đ, thành phố N, tinh N; nghề nghiệp: Giám đốc Công ty TNHH Tuấn Thanh; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Khương Văn T và bà Phạm Thị C; vợ Phạm Thị Minh T và có 03 con, lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2004; tiền án; tiền sự: Không; bị cáo không bị tạm giam, tạm giữ ngày nào, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
4. Hoàng Mạnh T (Tên gọi khác không), sinh năm 1974; tại phường G, thành phố N, tỉnh N; trú tại phố 3, phường G, thành phố N, tỉnh N; nghề nghiệp: Giám đốc - Công ty cổ phần xi măng The Vissai Ninh Bình; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn L và bà Dương Thị T; vợ Dương Thị H và có 03 con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2014; tiền án; tiền sự: Không; bị cáo không bị tạm giam, tạm giữ ngày nào, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
5. Hồ Đức T1 (Tên gọi khác không), sinh năm 1979; tại huyện Q, tỉnh A; trú tại khối 2, phường V, thành phố V, tỉnh A; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Đức N và bà Trần Thị P; vợ Ngô Thị H và có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2016; tiền án; tiền sự: Không; Nhân thân: Quyết định số 46 ngày 26/5/2012, Công an thành phố V, tỉnh A xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi "Đánh bạc". Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 09/02/2020 đến ngày 12/02/2020. Được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
6. Phan Anh Đ (Tên gọi khác không), sinh năm 1980; tại phường B, thành phố T, tỉnh N; trú tại tổ 18, phường B, thành phố T, tỉnh N; nghề nghiệp: Giám đốc - Công ty cổ phần vận tải thương mại Phúc Hưng; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Đình M và bà Cao Thị L; vợ Tống Thị Xa H và có 03 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2016; tiền án; tiền sự: Không; bị cáo không bị tạm giam, tạm giữ ngày nào, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
7. Nguyễn Tiến D (Tên gọi khác không), sinh năm 1982; tại huyện B, thành phố P; trú tại số nhà 147, đường L, phố P, phường P, thành phố N, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Phạm Thị C; vợ Lại Thị Duy T và có 03 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2019; tiền án; tiền sự: Không; bị cáo không bị tạm giam, tạm giữ ngày nào, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền, lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Anh Hoàng Văn L, sinh năm 1984; trú tại thôn 1 K, xã G, huyện V, tỉnh N. (Vắng mặt tại phiên tòa).
Anh Ngô Ngọc T2, sinh năm 1985; trú tại Khối 7, phường H, thành phố V, tỉnh A. (Vắng mặt tại phiên tòa).
Anh Bùi Công H, sinh năm 1984; trú tại thôn L, xã G, huyện V, tỉnh N. (Vắng mặt tại phiên tòa).
* Người làm chứng:
Anh Nguyễn Huy N, sinh năm 1976; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bùi Hải C, Hoàng Mạnh T, Tạ Ngọc L, Hồ Đức T1 và Khương Văn L1 là bạn bè quen biết nhau. Khoảng 19 giờ ngày 09/02/2020, C, T, L, T1 và L2 ăn cơm uống rượu tại nhà hàng “Kỳ Chim” ở quốc lộ 1A, thôn L, xã G, huyện L, tỉnh N. Khoảng 20 giờ 45 phút cùng ngày, T, C, L và L1 đi về Phòng hành chính Cảng The Vissai ở xóm Nam Hải, xã Gia Tân, huyện Gia Viễn ngồi chơi uống nước. Quá trình ngồi nói chuyện trong phòng, thấy 01 bộ bài tú lơ khơ để trên đầu giường, Chung nói: “Anh em mình làm tý khai xuân cho vui” - ý rủ đánh bạc bằng hình thức đánh “Ba cây” được thua bằng tiền; T, L, L1 đồng ý. Sau đó, C, T, L và L1 ngồi xuống giường trong Phòng hành chính cảng Vissai và cùng đánh bạc bằng hình thức đánh “Ba cây” được thua bằng tiền, mức thắng thua mỗi ván cao nhất là 1.000.000 đồng, “chín, mười nước” nhân đôi số tiền đặt cược, “sáp” nhân ba số tiền đặt cược. Khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày, Hồ Đức T1, Nguyễn Tiến D và Phan Anh Đ đến chơi, thấy C, T, L1, L đang đánh bạc bằng hình thức đánh “Ba cây” nên T1, D và Đ tham gia đánh bạc cùng. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, T không đánh bạc nữa mà ngồi xem các đối tượng còn lại đánh bạc. Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 09/02/2020, trong lúc Bùi Hải C, Tạ Ngọc L, Khương Văn L1, Hồ Đức T1, Nguyễn Tiến D và Phan Anh Đ đang đánh bạc bằng hình thức đánh “Ba cây” được thua bằng tiền tại Phòng điều hành cảng của Nhà máy xi măng The Vissai ở xóm Nam Hải, xã G, huyện V thì bị Tổ công tác Công an huyện V phối hợp với Công an xã G phát hiện bắt quả tang. Khi phát hiện lực lượng Công an, T, L1, C, D, Đ đã bỏ chạy, còn lại Tạ Ngọc L và Hồ Đức T1 bị bắt giữ. Thu giữ tại giường nơi các đối tượng ngồi đánh bạc số tiền 7.500.000 đồng, 01 bộ bài tú lơ khơ 36 quân, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 vỏ màu xám ốp màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus vỏ màu xám ốp màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR vỏ màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 vỏ màu vàng. Thu tại nóc tủ quần áo cạnh giường nơi các đối tượng đánh bạc số tiền 44.000.000 đồng. Thu tại ghế cạnh giường nơi các đối tượng đánh bạc 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S10 vỏ màu trắng ngọc trai ốp trong suốt. Thu trong người Tạ Ngọc L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 10 vỏ màu đen, ốp màu đen. Ngoài ra còn thu của Hồ Đức T1 01 xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Tucson màu trắng Biển kiểm soát 37A-*****.
Ngày 11/02/2020, Bùi Hải C đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi đánh bạc của mình. Ngày 12/02/2020, Hoàng Mạnh T, Khương Văn L1, Phan Anh Đ, Nguyễn Tiến D đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V làm việc theo giấy triệu tập và khai nhận toàn bộ hành vi đánh bạc của mình cùng đồng phạm. Khương Văn L1 nộp lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V số tiền 200.000 đồng sử dụng vào đánh bạc ngày 09/02/2020 mà lúc bỏ chạy Lương đã mang theo.
Kết quả điều tra xác định: Số tiền Bùi Hải C, Tạ Ngọc L, Hồ Đức T1, Hoàng Mạnh T, Khương Văn L1, Phan Anh Đ và Nguyễn Tiến D sử dụng vào việc đánh bạc ngày 09/02/2020 là 7.700.000 đồng (gồm: số tiền 7.500.000 đồng thu giữ trên giường nơi các bị cáo ngồi đánh bạc và 200.000 đồng thu giữ của L).
Tại bản Cáo trạng số 24/CT-VKS-GV ngày 21/04/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố Bùi Hải C, Tạ Ngọc L, Hồ Đức T1, Hoàng Mạnh T, Khương Văn L, Phan Anh Đ và Nguyễn Tiến D ra trước Tòa án nhân dân huyện V để xét xử về tội “Đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Hải C, Tạ Ngọc L, Hồ Đức T1, Hoàng Mạnh T, Khương Văn L1, Phan Anh Đ và Nguyễn Tiến D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xác nhận nội dung bản cáo trạng truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” là đúng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Hoàng Văn L2 trong quá trình điều tra trình bày: Anh có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 vỏ màu xám ốp màu đen, tối ngày 09/02/2020 điện thoại của anh hết pin. Do vậy, anh mang điện thoại trên sạc nhờ tại Phòng hành chính Cảng The Vissai. Anh không liên quan đến việc các bị cáo đánh bạc. Cơ quan Công an đã thu giữ và trả lại cho anh điện thoại nêu trên và anh không có ý kiến gì.
Anh Ngô Ngọc T2 trong quá trình điều tra trình bày: Anh là em rể của Hồ Đức T1, ngày 09/02/2020 anh có cho Hồ Đức T1 mượn 01 xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Tucson màu trắng Biển kiểm soát 37A-***** để T1 đi du lịch, anh không biết T1 sử dụng xe làm phương tiện đi đến chỗ đánh bạc, sau khi vụ án xảy ra anh mới biết. Hiện nay, anh đã được cơ quan Công an trả lại chiếc xe ô tô nêu trên và anh không có ý kiến gì.
Anh Bùi Công H trong quá trình điều tra trình bày: Anh là đầu bếp của Cảng The Vissai, số tiền 44.000.000 đồng là của anh để mua thực thẩm cho công nhân Nhà máy The Vissai, anh để tại nóc tủ quần áo tại Phòng hành chính cảng Vissai, không liên quan đến việc đánh bạc. Hiện nay, anh đã được cơ quan Công an trả lại số tiền nêu trên và anh không có ý kiến gì.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V thực hành quyền công tố tại phiên tòa, phát biểu luận tội đã giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi phân tích đánh giá tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Bùi Hải C, Tạ Ngọc L, Hồ Đức T1, Hoàng Mạnh T, Khương Văn L1, Phan Anh Đ và Nguyễn Tiến D phạm tội “Đánh bạc”; đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 (áp dụng thêm điểm x khoản 1 đối với bị cáo L; khoản 2 đối với bị cáo C) Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Hải C từ 23.000.000 đồng đến 24.000.000 đồng; bị cáo Tạ Ngọc L từ 22.000.000 đồng đến 23.000.000 đồng; bị cáo Hồ Đức T1 từ 22.000.000 đồng đến 23.000.000 đồng; bị cáo Hoàng Mạnh T từ 22.000.000 đồng đến 23.000.000 đồng; bị cáo Khương Văn L1 từ 22.000.000 đồng đến 23.000.000 đồng; bị cáo Phan Anh Đ từ 21.000.000 đồng đến 22.000.000 đồng, bị cáo Nguyễn Tiến D từ 21.000.000 đồng đến 22.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc là 7.700.000 đồng (gồm 7.500.000 đồng thu giữ tại nơi các bị cáo ngồi đánh bạc và 200.000 đồng thu giữ của Khương Văn L).
Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 36 quân thu giữ tại chiếu bạc, là công cụ dùng vào việc phạm tội và vật chứng không có giá trị;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa bị cáo Bùi Hải C, Tạ Ngọc L, Hồ Đức T1, Hoàng Mạnh T, Khương Văn L1, Phan Anh Đ và Nguyễn Tiến D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đồng phạm, phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng của vụ án đã được thu hồi, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ 20 giờ 45 phút ngày 09/02/2020, tại Phòng hành chính cảng Vissai ở xóm Nam Hải, xã G, huyện V, các bị cáo Bùi Hải C, Tạ Ngọc L, Hồ Đức T1, Hoàng Mạnh T, Khương Văn L1, Phan Anh Đ và Nguyễn Tiến D đã sử dụng bộ bài tú lơ khơ 36 quân đánh bài dưới hình thức “Đánh ba cây” được, thua bằng tiền đến khoảng 22 giờ 45 phút cùng ngày bị Tổ công tác Công an huyện V phối hợp với Công an xã G phát hiện bắt quả tang thu giữ tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 7.700.000 đồng.
Bộ luật Hình sự quy định:
Điều 321. Tội đánh bạc
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
…
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.
[3]. Hành vi của bị cáo Bùi Hải C, Tạ Ngọc L, Hồ Đức T1, Hoàng Mạnh T, Khương Văn L1, Phan Anh Đ và Nguyễn Tiến D đã nêu trên là phạm tội "Đánh bạc", được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự; như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4]. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng được pháp luật hình sự bảo vệ. Đánh bạc đang là một tệ nạn nguy hiểm, bị gia đình, xã hội lên án, Nhà nước ta đang ra sức loại trừ. Vì đánh bạc mà nhiều gia đình bị khánh kiệt, nợ nần chồng chất, nó cũng là nguyên nhân gây nên một loạt các loại tội phạm khác. Các bị cáo đều đã thành niên, nhưng không chịu tu chí làm ăn lương thiện mà lại tham gia đánh bạc kiếm tiền bất chính. Hành vi của các bị cáo bị chính gia đình các bị cáo lên án, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự trên địa bàn. Vì vậy, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm minh để giáo dục, cải tạo các bị cáo và là bài học răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. Mức hình phạt áp dụng được căn cứ vào tính chất tội phạm, vai trò của các bị cáo, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo trong vụ án để quyết định cho phù hợp.
[5]. Đối với Bùi Hải C là người khởi xướng, chủ động rủ rê các bị cáo khác tham gia đánh bạc, rồi cùng các bị cáo khác đánh bạc. Do vậy, Bùi Hải C xếp vai trò đầu trong vụ vụ án. Đối với Tạ Ngọc L, Hồ Đức T1, Hoàng Mạnh T, Khương Văn L1, Phan Anh Đ và Nguyễn Tiến D đều là đồng phạm, thực hiện tội phạm một cách tích cực. Do vậy, các bị cáo này lần lượt xếp vai trò sau cùng trong vụ án.
[6]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[7]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đưa ra tại phiên tòa, đó là: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải; đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo L là con của liệt sỹ; bị cáo C ra đầu thú. Đây là các tình tiết được quy định tại điểm i, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[8]. Về nhân thân: Bị cáo Hồ Đức T1 từng bị xử phạt vi phạm hành chính, đã chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính trên một năm, nên được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính.
[9]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, mức độ tham gia vào việc thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của các bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, không cần thiết phải cách ly các các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà chỉ cần áp dụng hình phạt tiền, tuy là ít nghiêm khắc hơn, nhưng là sự trừng phạt nặng về kinh tế đối với các bị cáo, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và nâng cao công tác phòng ngừa chung, để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
[10]. Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cũng như tại phiên Tòa đã xác định số tiền bị cáo Bùi Hải C, Tạ Ngọc L, Hồ Đức T1, Hoàng Mạnh T, Khương Văn L1, Phan Anh Đ và Nguyễn Tiến D sử dụng vào việc đánh bạc ngày 09/02/2020 là 7.700.000 đồng (gồm: số tiền 7.500.000 đồng thu giữ trên giường nơi các bị cáo ngồi đánh bạc và 200.000 đồng thu giữ của L). Cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
Đối với 01 bộ bài tú lơ khơ 36 quân thu giữ tại chiếu bạc, là công cụ dùng vào việc phạm tội và vật chứng không có giá trị, cần tịch thu tiêu hủy.
[11]. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus vỏ màu xám ốp màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 vỏ màu vàng là tài sản của Nguyễn Tiến D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR vỏ màu đen là tài sản của Bùi Hải C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Note 10 vỏ màu đen ốp màu đen thu giữ của Tạ Ngọc L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung S10 vỏ màu trắng ngọc trai, ốp trong suốt là tài sản của Hồ Đức T1. Đây là các tài sản không liên quan đến việc đánh bạc. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã trả lại các tài sản trên cho D, C, L và T1 là phù hợp.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 vỏ màu xám ốp màu đen. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản của anh Hoàng Văn L2 không liên quan đến việc đánh bạc. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã trả lại điện thoại cho anh L2 là phù hợp.
Đối với 01 xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Tucson màu trắng Biển kiểm soát 37A-*****. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Ngô Ngọc T2 không liên quan đến việc đánh bạc. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã trả lại chiếc xe ô tô trên cho anh T là phù hợp.
Đối với số tiền 44.000.000 đồng thu tại nóc tủ quần áo cạnh giường nơi các đối tượng đánh bạc. Quá trình điều tra xác định đây là tiền của anh Bùi Công H không liên quan đến việc đánh bạc. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã trả lại số tiền trên cho anh H là phù hợp.
[12] Về án phí: Các bị cáo Bùi Hải C, Hồ Đức T1, Hoàng Mạnh T, Khương Văn L1, Phan Anh Đ và Nguyễn Tiến D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo Tạ Ngọc L là thân nhân Liệt sỹ cần miễn án phí cho bị cáo L.
[13] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo luật định.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các bị cáo Bùi Hải C, Tạ Ngọc L, Hồ Đức T1, Hoàng Mạnh T, Khương Văn L1, Phan Anh Đ và Nguyễn Tiến D phạm tội “Đánh bạc”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
+ Xử phạt bị cáo Bùi Hải C: 23.000.000 (Hai mươi ba triệu) đồng.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
+ Xử phạt bị cáo Hồ Đức T1: 22.000.000 (Hai mươi hai triệu) đồng.
+ Xử phạt bị cáo Hoàng Mạnh T: 22.000.000 (Hai mươi hai triệu) đồng.
+ Xử phạt bị cáo Khương Văn L1: 22.000.000 (Hai mươi hai triệu) đồng.
+ Xử phạt bị cáo Phan Anh Đ: 21.000.000 (Hai mươi mốt triệu) đồng.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến D: 21.000.000 (Hai mươi mốt triệu) đồng.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
+ Xử phạt bị cáo Tạ Ngọc L: 21.000.000 (Hai mươi mốt triệu) đồng.
2. Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:
Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
+ Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc là 7.700.000 đồng (gồm 7.500.000 đồng thu giữ tại nơi các bị cáo ngồi đánh bạc và 200.000 đồng thu giữ của Khương Văn L1).
+ Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 36 quân thu giữ tại chiếu bạc, là công cụ dùng vào việc phạm tội và vật chứng không có giá trị; (Số tiền tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước gửi tại tài sản tạm giữ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V. Đặc điểm các vật chứng tịch thu tiêu hủy theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 22/04/2020, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V và Chi cục Thi hành án dân sự huyện V).
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự”.
3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Bùi Hải C, Hồ Đức T1, Hoàng Mạnh T, Khương Văn L1, Phan Anh Đ và Nguyễn Tiến D mỗi người phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn)đồng án phí Hình sự sơ thẩm. Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Tạ Ngọc L.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án 18/2020/HSST ngày 07/05/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 18/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về