Bản án 133/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 133/2021/HS-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 08 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:56/2021/TLST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2021/HSST-QĐ ngày 25 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hồ Văn Y, sinh năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hộ khẩu thường trú: Ấp 2, xã T, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: Ấp 2, xã T, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hồ Văn C và bà: Mã Ngọc N; bị cáo có vợ tên Đoàn Thu T, sinh năm:1998, có 01 con sinh năm 2020; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2020 đến nay (bị cáo trích xuất có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Phạm Văn P, sinh năm: 1960; địa chỉ: Thôn M, xã M, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).

- Anh Võ Công T, sinh năm: 1991; địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện Bến Lức, tỉnh Long An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 20 phút ngày 15/12/2020, Chuột (chưa rõ lai lịch) gọi điện thoại cho Hồ Văn Y kêu mua ma túy về để sử dụng, Y đồng ý và nói còn 70.000 đồng. Chuột nói với Y đến ngã ba Cây Soài thuộc ấp 4, xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh gọi điện thoại cho Be (chưa rõ lai lịch) để mua ma túy. Sau đó, Y điều khiển xe gắn máy biển số 67B2-564.84 đến ngã ba Cây Soài thuộc ấp 4, xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh và điện thoại cho Be để mua ma túy. Be nói Y nhét tiền vào lỗ cây trụ điện rồi đi nơi khác, khi nào Be điện thoại lại thì Y đến lấy ma túy. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, Y đến địa điểm trên nhét 70.000 đồng vào lỗ cây trụ điện sau đó bỏ đi. Khoảng 05 phút sau thì Be gọi điện thoại cho Y quay lại chỗ cũ để lấy ma túy và nói gói ma túy này có giá 150.000 đồng, Y còn nợ Be 80.000 đồng. Y đồng ý và quay lại lấy trong lỗ cây trụ điện 01 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy, Y cất vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe đi về. Đến khoảng 17 giờ 00 phút cùng ngày khi Y đang điều khiển xe đến ấp 3B, xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị lực lượng công an kiểm tra phát hiện và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Kết quả thử ma túy đối với Y có kết quả dương tính (+) với chất ma túy tổng hợp.

Tại Bản kết luận giám định số 25/KLGĐ-MT ngày 23/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2239g (không phẩy hai hai ba chín gam), loại Me thamphetamine.

Vật chứng thu giữ:

- 01 gói niêm phong mang số vụ 11/2021 có chữ ký niêm phong của giám định viên và cán bộ điều tra.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei: 351867070217481.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số Imei: 359263069927714.

- 01 xe gắn máy có số máy: LC150FMG01514450, số khung: không.

- 01 biển số 67B2-564.84.

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Tại Bản cáo trạng số 67/CT-VKS.CC ngày 09/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đã truy tố Hồ Văn Y về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Văn Y đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi. Bị cáo thừa nhận việc Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, không oan sai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đã đánh giá tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của bị cáo, đánh giá các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Hồ Văn Y mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; đồng thời đề nghị xử lý về vật chứng.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ cho bị cáo 01 phần hình phạt để bị cáo có cơ hội phấn đấu trở thành một công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Hồ Văn Y đã thừa nhận toàn bộ hành vi: Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 15/12/2020 tại ấp 3B, xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Văn Y đang tàng trữ tinh thể không màu ở thể rắn có khối lượng 0,2239 gam là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamin để sử dụng thì bị lực lượng Công an bắt quả tang cùng tang vật. Lời khai nhận tội của bị cáo là khách quan, phù hợp với lời khai của của người làm chứng, người liên quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở để xác định hành vi nêu trên của bị cáo Hồ Văn Y đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đã truy tố đối với bị cáo Hồ Văn Y về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo phạm tội do cố ý, bị cáo đã có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó, cần có mức hình phạt tương đối nghiêm khắc mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh kinh tế của bị cáo Hồ Văn Y khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 gói niêm phong mang số vụ 11/2021, có chữ ký niêm phong của giám định viên và cán bộ điều tra là vật cấm tàng trữ nên Hội đồng xét xử xét cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei: 351867070217481 là công cụ bị cáo sử dụng để liên lạc mua ma túy nên Hội đồng xét xử xét cần tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số Imeli: 359263069927714 và 300.000 đồng, đây là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bị cáo, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử xét cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 xe gắn máy, số máy LC150FMG01514450, số khung không rõ thu giữ của bị cáo Hồ Văn Ý, tại kết luận giám định số 345/KLGĐ-X(Đ4) ngày 07/01/2021 của Phòng k thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì số máy không thay đổi, số khung mài mất số, không xác định được số nguyên thủy; tại phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của Công an huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 18/12/2020 thì chiếc xe gắn máy có số máy LC150FMG01514450 có biển kiểm soát là 36F9-6681, chủ sở hữu của chiếc xe là Phạm Văn P, sinh năm: 1960; địa chỉ: Thôn M, xã M, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Trong quá trình làm việc ông P khai nhận đã bán chiếc xe gắn máy này cho 01 người không rõ lai lịch vào năm 2015 và hiện nay không có yêu cầu nhận lại chiếc xe nêu trên. Bị cáo khai nhận mua lại chiếc xe trên từ một đối tượng không rõ lai lịch, không có giấy tờ. Ngày 11/01/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi đã ra thông báo tìm chủ sở hữu đối với chiếc xe gắn máy này; xét thấy đã hết thời hạn thông báo mà không có chủ sở hữu đến nhận lại tài sản. Mặt khác, theo quy định tại Điều 53 Luật giao thông đường bộ năm 2008 thì xe gắn máy nêu trên không đảm bảo tham gia giao thông đường bộ; đồng thời bị cáo khai nhận đã sử dụng xe gắn máy để mua ma túy nên Hội đồng xét xử xét cần tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với biển xe 67B2-564.84, tại phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ của Công an huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 18/12/2020 xác định chủ xe là anh Võ Công T, sinh năm 1991; hộ khẩu thường trú: Số 261/6B, khu phố T, phường M, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Trong quá làm việc anh T khai nhận chiếc xe gắn biển số 67B2-564.84 đã bị mất trộm vào tháng 11/2020 tại xã Thanh Phú, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Hiện nay anh yêu cầu cơ quan chức năng điều tra thu hồi chiếc xe gắn máy. Hội đồng xét xử xét đây là tài sản thuộc sở hữu của anh Võ Công T nên cần trả lại cho anh Võ Công T.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về các vấn đề khác:

Đối tượng tên Chuột đã xác định được lý lịch là Nguyễn Hữu P, sinh năm 2002; địa chỉ: Ấp 3, xã T, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, đã bỏ trốn khỏi địa phương nên chưa làm việc được; đồng thời đối tượng tên Be chưa xác định nhân thân, lai lịch, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ để tránh bỏ lọt tội phạm.

Ngày 11/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi đã thông báo vụ việc mất trộm tài sản cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Tuy nhiên, khi thực hiện thông báo không chuyển vật chứng liên quan đến vụ án là biển số xe 67B2-564.84 là chưa đảm bảo giải quyết triệt để vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần kiến nghị để Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi rút kinh nghiệm.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hồ Văn Y phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Văn Y 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong mang số vụ 11/2021, có chữ ký niêm phong của giám định viên và cán bộ điều tra.

- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei: 351867070217481; 01(một) xe gắn máy, số máy LC150FMG01514450, số khung không.

- Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, 359263069927714 và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

- Trả lại cho anh Võ Công T: 01 (một) biển số xe 67B2-564.84.

(Tang vật theo phiếu nhập kho vật chứng số 12/PNK, ngày 11/01/2021 của Công an huyện Củ Chi).

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Hồ Văn Y phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án đối với bị cáo, đối với các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 133/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:133/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;