Bản án 60/2020/HSST ngày 02/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 60/2020/HSST NGÀY 02/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2020/HSST ngày 16 tháng 10 năm 2020; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2020, đối với:

Bị cáo Bùi Văn T, sinh năm 1991. Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã B, huyện K tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Bùi Văn Nh và bà Hoàng Thị Nh; Có vợ là Chị Đào Thị B, có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2009 tham gia quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2011 xuất ngũ về địa phương; Ngày 11/6/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 28/4/2017 chấp hành xong (đã được xóa án tích); Bị bắt, tạm giữ từ ngày 03/8/2020 đến ngày 06/8/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Kiến Xương; Được dẫn giải, có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng:

- Anh Trần Văn L, sinh năm 1985 (Vắng mặt tại phiên tòa); Trú tại: thôn N, xã H, huyện K, tỉnh Thái Bình.

Người chứng kiến:

- Anh Đỗ Văn Ch, sinh năm 1984;

Trú tại: thôn N, xã H, huyện K, tỉnh Thái Bình.

- Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1989;

Trú tại: thôn T, xã H, huyện K, tỉnh Thái Bình.

( Người chứng kiến đều vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân bị nghiện ma túy, nên khoảng 14 giờ ngày 03/8/2020, T đón xe ôm của một người đàn ông không quen biết đi từ xã Bình Thanh, huyện Kiến Xương sang xã Giao Phong, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định tìm mua ma túy về để sử dụng cho bản thân. Đến nơi T thấy một người đàn ông giống như các đối tượng nghiện đã nói, T lại gần và hỏi “ Có hê không bán cho em trăm rưỡi” người này hiểu ý T muốn mua 150.000 đồng ma túy nên trả lời: “Đưa tiền đây”. T đưa cho người đàn ông đó 150.000 đồng. Người này nhận tiền rồi đưa lại cho T một gói bên ngoài gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong gói bằng ni lông màu đen, trong cùng chứa ma túy loại Hêrôin. T nhận và cầm ở lòng bàn tay trái rồi đón xe ôm đi đến phà Cồn Nhất thuộc tỉnh Nam Định thì T xuống xe trả tiền xe ôm rồi lên phà đi đến xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Khi Tần đi bộ đến khu vực Km39+8 quốc lộ 37B thuộc thôn Tân Thành, xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình thì bị tổ công tác Công an huyện Kiến Xương bắt quả tang.

* Vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong số 290/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình ghi “Hoàn trả mẫu vật giám định vật chứng thu giữ của Bùi Văn T, Sinh năm 1991, Trú tại: thôn Đa Cốc, xã Bình Thanh, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình”, bên trong gồm: 0,1510 gam (không phẩy một nghìn năm trăm mười gam) Heroine còn lại sau giám định và vỏ bao gói.

* Kết quả giám định: Bản kết luận giám định số 290/KLGĐ- PC09, ngày 04/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định thu của Bùi Văn T là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1812 gam.

Tại bản Cáo trạng số 59/CT- VKSKX ngày 16/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đã truy tố Bùi Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50; của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, xử phạt bị cáo Bùi Văn T mức án từ 01(một) năm 03(ba) tháng đến 01(một) năm 06(sáu) tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo do bị cáo không có thu nhập ổn định.

- Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo Bùi Văn T còn lại sau giám định và vỏ bao gói.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo Bùi Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, xin được giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo không khiếu nại đối với hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Văn T như trong bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kiến Xương lập hồi 16 giờ 00 phút ngày 03/8/2020 tại hội trường thôn Tân Thành, xã Hồng Tiến,huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

- Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kiến Xương lập hồi 17giờ 05 phút ngày 03/8/2020 tại hội trường thôn Tân Thành, xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

- Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kiến Xương lập hồi 17giờ 25 phút ngày 03/8/2020 tại hội trường thôn Tân Thành, xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

- Kết luận giám định số 290/KLGĐ- PC09, ngày 04/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Biên bản ghi lời khai của người làm chứng là anh Trần Văn L.

- Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến là anh Nguyễn Văn Q và anh Đỗ Văn Ch.

Xét thấy các chứng cứ nêu trên phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Văn T về địa điểm, thời gian, hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 15 giờ 50 phút ngày 03/8/2020, tại Km39+8, quốc lộ 37B, thuộc thôn Tân Thành, xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kiến Xương bắt quả tang Bùi Văn T, có hành vi tàng trữ trái phép 0,1812 gam ma túy loại Hêrôin với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Bùi Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy đinh:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c. Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ do đã thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và 01 tình tiết giảm nhẹ do đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người đã thành niên, là chủ thể có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Mặc dù nhận thức được ma túy là chất độc hại gây hiểm họa cho toàn nhân loại, sử dụng ma túy sẽ làm sức khỏe bị kiệt quệ, ảnh hưởng đến kinh tế, hạnh phúc gia đình, đồng thời là điều kiện lây nhiễm HIV/AIDS, ngoài ra ma túy còn là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo biết Hêrôin là loại chất ma túy mà nhà nước cấm tàng trữ, sử dụng, mua bán nhưng đã bất chấp pháp luật, bị cáo đã tàng trữ để sử dụng. Vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo phải bị xử lý bằng pháp luật hình sự, với mức án tương xứng, áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời còn là bài học để răn đe, phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người thành khẩn khai nhận tội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có thu nhập ổn định.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Cần phải tịch thu tiêu huỷ khối lượng Hêrôin thu giữ của Bùi Văn T còn lại sau giám định là 0,1510g (không phẩy một nghìn năm trăm mười gam) và vỏ bao gói, đựng trong 01 phong bì niêm phong số 290/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (số vật chứng này Công an huyện Kiến Xương đã chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình quản lý).

[8] Về án phí: Bị cáo Bùi Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về nguồn gốc số ma túy Bùi Văn T khai mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực ngã tư Giao Phong, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, do không xác định được người bán nên không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Điều luật áp dụng:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

- Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 01(một) năm 03(ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (03/8/2020).

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu huỷ khối lượng Hêrôin thu giữ của Bùi Văn T còn lại sau giám định là 0,1510g (không phẩy một nghìn năm trăm mười gam) và vỏ bao gói, đựng trong 01 phong bì niêm phong số 290/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (Số vật chứng này Công an huyện Kiến Xương đã chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình quản lý).

3. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Bùi Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo Bùi Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (02/12/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 60/2020/HSST ngày 02/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;