Bản án 107/2019/HSST ngày 02/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 107/2019/HSST NGÀY 02/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: ĐÀO DUY C; sinh ngày: 23/6/1980, tại tỉnh: Đắk Nông; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: PTT, phường TL, thành phố B, Đắk Lắk; tạm trú: số HH, phường TL, thành phố B, Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 03/12; con ông: Đào Duy C1 và con bà: Nguyễn Thị H; Bị cáo có vợ là Phạm Thị O - sinh năm 1982 (đang cư trú tại Malaysia) và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2002.

Tiền án: Không,

Tiền sự: 01 tiền sự. Ngày 06/11/2018, Đào Duy C bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường TL ban hành quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại phường TL, thời hạn 03 tháng kể từ ngày 06/11/2018 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/12/2018 cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Quang D - sinh năm 2000, địa chỉ: Buôn ES B, xã EH, huyện Cg, Đắk Lắk . (vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Quốc V - sinh năm 1990, địa chỉ: PVĐ, phường TH, thành phố B, Đắk Lắk. (vắng mặt).

3. Anh Đỗ Việt A - sinh năm 1996; địa chỉ: xã EH, huyện Cg, Đắk Lắk. (vắng mặt).

4. Chị Đặng Thị Tr - sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn ĐS, xã HH, huyện CK, Đắk Lắk. (vắng mặt).

5. Anh Nguyễn Văn C2 - sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn XA, xã PX, huyện KN, Đắk Lắk. (vắng mặt).

6. Chị Nguyễn Thị Thủy T - sinh năm 2000; NVC, phường TL1, thành phố B, Đắk Lắk. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đào Duy C là người nghiện ma túy đá, trong quá trình chạy xe tải thuê, C quen biết với người đàn ông tên S (không rõ nhân thân lai lịch) ở thành phố Hồ Chí Minh là người bán ma túy. Sáng ngày 10/12/2018, khi chạy xe đến khu vực bến xe Mđ, quận BT, thành phố Hồ Chí Minh, C gặp và mua ma túy của S với số tiền 500.000 đồng, S đưa cho c một gói nylon bên trong có chứa chất ma túy đá. Sau khi mua được ma túy, C chạy xe về lại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Đến sáng ngày 11/12/2018, khi C và anh Nguyễn Quang D - sinh năm 2000, đang ở tại địa chỉ số HHT, phường TL, thành phố B, Đắk Lắk thì có Nguyễn Quốc V - sinh năm 1990 đến chơi, sau có thêm Đỗ Việt A - sinh năm 1996; chị Đặng Thị Tr - sinh năm 1994; anh Nguyễn Văn C2 - sinh năm 1997; và chị Nguyễn Thị Thủy T - sinh năm 2000 đến chơi. Lúc này, C lấy một ít ma túy mà C đã mua được và bộ sử dụng chất ma túy đá ra để sử dụng, thấy vậy D, V, Tr, C2 và T cùng xin C sử dụng ma túy. Số ma túy còn lại chưa sử dụng hết C để tại sàn nhà phòng bếp. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày thì bị lực lượng cảnh sát điều tra công an thành phố Buôn Ma Thuột kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ số ma túy còn lại và đã được niêm phong theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 1113/GDMT-PC09 ngày 18/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong một gói Nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4651 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,4100 gam, được niêm phong.

Đối với đối tượng tên S đã bán ma túy cho C tại khu vực bến xe Mđ, quận BT, thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã có công văn trao đổi thông tin tội phạm với cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận BT về đối tượng tên S để xử lý theo thẩm quyền.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Đào Duy C, Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ban hành quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo.

Đối với Nguyễn Quang D, Nguyễn Văn C2, Đặng Thị Tr, Nguyễn Thị Thủy T quá trình điều tra đã xác định được không liên quan đến hành vi phạm tội của C nên cơ quan cảnh sát điều tra thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý trách nhiệm hình sự.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Thị Thủy T, Nguyên Quốc V, Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ban hành quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo. Đối với hành vi sử dụng ma túy của Nguyễn Quang D, Đặng Thị Tr, Nguyễn Văn C2, Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã chuyển hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường đến cơ quan chính quyền địa phương nơi D, Tr, C2 đang cư trú theo quy định pháp luật. Đối với Đỗ Việt A không liên quan đến hành vi phạm tội, không có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên không đề cập xử lý.

Đối với bà Lê Thị Thu H1 là chủ sở hữu nhà số HHT, phường TL, thành phố B, bà H1 không biết việc Đào Duy C cất giấu ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý.

Tại bểm cáo trạng số 99/CT-VKS ngày 27/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Đào Duy C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Đào Duy C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo Đào Duy C và giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Đào Duy C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

+ Xử phạt bị cáo Đào Duy C mức án từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị tiêu hủy 0,4100 gam ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định và 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy gồm: 01 bình thủy tinh màu trắng gắn 01 ống nhựa và 01 ống thủy tinh màu trắng là tang vật của vụ án.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, bị cáo không bào chữa, tranh luận gì, mà chỉ xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã, thực hiện đúng thẩm quyền, tuân thủ đầy đủ theo quy định của thủ tục tố tụng về thu thập tài liệu chứng cứ của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, người làm chứng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai mà bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 11/12/2019, tại địa chỉ HHT, phường TL, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Đào Duy C đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,4651 gam ma túy, loại Methamphetamine. Hành vi của bị cáo Đào Duy C đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c. Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…ˮ

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Đào Duy C là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ: Bị cáo là người nghiện ma túy, biết được tác hại của ma túy đối với sức khỏe của con người, bị cáo nhận thức được rằng các chất ma túy do nhà nước độc quyền quản lý. Tuy nhiên, để thõa mãn nhu cầu cá nhân của mình bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến quy định nhà nước về độc quyền quản lý chất ma túy, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương.

Ngày 06/11/2018, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường TL ban hành quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại phường TL, thời hạn 03 tháng đối với bị cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đến ngày 11/12/2018 bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện ý thức xem thường pháp luật của bị cáo.

Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện. Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định có như vậy mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải về hành vi của mình, bị cáo có ông ngoại là liệt sỹ, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử cần áp dụng khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo để thể hiện sụ khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 0,4100 gam ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định và 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy gồm: 01 bình thủy tinh màu trắng gắn 01 ống nhựa và 01 ống thủy tinh màu trắng là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 260, Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự;

[1] Tuyên bố: Bị cáo Đào Duy C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Về điều luật áp dụng và hình phạt:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoán 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Đào Duy C 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 11/12/2018.

[3] Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,4100 gam ma túy còn lại sau giám định và 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy gồm: 01 bình thủy tinh màu trắng gắn 01 ống nhựa và 01 ống thủy tinh màu trắng là tang vật của vụ án.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đặc điểm cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/3/2018).

[4] Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Bị cáo Đào Duy C phải chịu 200.000 (hai trăm) ngàn đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

404
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 107/2019/HSST ngày 02/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;