Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 168/2020/TLST- HNGĐ ngày 10/7/2020, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 112/2020/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2020, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị N, sinh năm 1988. ĐKHK: Khu L thị trấn T, huyện T, tỉnh Hải Dương.

Chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Vương Văn Th, sinh năm 1986.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Khu L, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: SI KEN SU SI TO 139 B (Nhật Bản). Vắng mặt. Người đại diện theo ủy quyền của anh Th về việc giao, nhận các văn bản tố tụng tại Tòa án: Chị Vương Thị Th, sinh năm 1993. Vắng mặt.

Địa chỉ: Khu L, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Vũ Thị Ng trình bày: Chị và anh Vương Văn Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân (viết tắt UBND) thị trấn T, huyện T, tỉnh Hải Dương vào ngày 16/4/2009. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do khác biệt nhau về cách sống, vợ chồng không quan tâm yêu thương lẫn nhau, không có sự gắn kết chia sẻ. Anh Th có người phụ nữ khác nên có những lời lẽ, hành động thiếu tôn trọng chị và không có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình, không chăm lo cho con cái. Năm 2015, anh Th đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, vợ chồng sống ly thân từ đó. Tháng 3/2020, anh Th về nước để giải quyết mâu thuẫn gia đình, tuy nhiên mâu thuẫn của vợ chồng không thể giải quyết được, gia đình hai bên cũng đã khuyên giải nhưng không có kết quả nên anh Th lại tiếp tục sang Nhật Bản lao động. Chị Ng chuyển đi nơi khác ở và xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Th theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là Vương Vũ Diệu L, sinh ngày 22/11/2009 và Vương Tiến Đ, sinh ngày 21/7/2012. Hiện tại các con đang sống với ông bà nội tại khu L, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hải Dương. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung cho đến khi các con thành niên và chị tự nguyện không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản, nợ chung: Chị Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn đề nghị và giấy ủy quyền ngày 09/9/2020, anh Vương Văn Th có quan điểm nhất trí ly hôn; các con Vương Vũ Diệu L, sinh ngày 22/11/2009 và Vương Tiến Đ, sinh ngày 21/7/2012 có quan điểm ở với ai anh cũng nhất trí, vợ chồng có tài sản chung nhưng anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do anh đang ở nước ngoài nên ủy quyền cho chị Vương Thị Th giao nhận các văn bản tố tụng tại Tòa án và các vấn đề khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản lấy lời khai chị Vương Thị Th xác định, chị vẫn nhất trí nhận sự ủy quyền của anh Th về việc giao nhận các văn bản tố tụng tại Tòa án và các vấn đề khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, chị đã thông báo cho anh Th biết, anh Th vẫn giữ nguyên quan điểm như anh đã trình bày.

Tại Kết luận giám định số 12/KLGĐ-PC09 ngày 04/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Dấu vân tay in trong các tài liệu do anh Th gửi từ Nhật Bản về với dấu vân tay trên các tài liệu mẫu so sánh do là của cùng một người.

Các con chung của chị Ng, anh Th là Vương Vũ Diệu L và Vương Tiến Đ đều có nguyện vọng được ở với chị Ng.

Tòa án xác minh tại địa phương nơi chị Ng và anh Th đăng ký kết hôn và sinh sống thể hiện: Trong cuộc sống vợ chồng chị Ng và anh Th có xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng không có sự tin tưởng lẫn nhau. Do mâu thuẫn căng thẳng nên anh Th đã phải về nước để giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả, sau đó anh Th lại tiếp tục đi nước ngoài, chị Ng cũng đã chuyển đi nơi khác sinh sống.

Nay chị Ng có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Về việc tuân theo pháp luật. Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (viết tắt HĐXX) và nguyên, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (viết tắt BLTTDS). Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị HĐXX: Áp dụng Điều 51, 56; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị Ng ly hôn anh Vương Văn Th. Về con chung: Giao con chung Vương Vũ Diệu L, sinh ngày 22/11/2009 và Vương Tiến Đ, sinh ngày 21/7/2012 cho chị Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các con thành niên (tròn 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ng không yêu cầu anh Thành phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Chị Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Vũ Thị Ng sinh sống tại Việt Nam, anh Vương Văn Th có địa chỉ trước khi xuất cảnh ở Khu L, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hải Dương, hiện anh Th đang sinh sống và làm việc tại Nhật Bản. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Mặc dù, anh Th không về Việt Nam tham gia tố tụng nhưng anh đã gửi các tài liệu gồm: Đơn đề nghị, giấy ủy quyền. Tòa án đã trưng cầu giám định dấu vân tay trong các tài liệu này và có kết luận giám định dấu vân tay trong các tài liệu do anh Th gửi về và dấu vân tay trong tài liệu mẫu so sánh là của cùng một người. Do vậy khẳng định đúng ý chí, quan điểm của anh Th. Quá trình giải quyết vụ án, do anh Th đã có quan điểm gửi về nên chị Ng và anh Th đều đề nghị Tòa án mở phiên họp công khai chứng cứ, hòa giải và đưa vụ án ra xét xử sớm hơn thời gian đã ấn định tại thông báo về việc thụ lý vụ án. Do vậy, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải cũng như ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sớm hơn thời gian đã ấn định tại thông báo thụ lý vụ án để đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Chị Ng và người đại diện theo ủy quyền của anh Th đều đề nghị xét xử vắng mặt, anh Th vắng mặt lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 BLTTDS, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Ng và anh Vương Văn Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn T, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương vào ngày 16/4/2009, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách vợ chồng khác biệt nhau về cách sống, vợ chồng không có sự quan tâm, thương yêu và chia sẻ lẫn nhau, không tin tưởng nhau. Anh Th đã phải về nước để giải quyết mâu thuẫn, gia đình cũng đã khuyên giải nhưng không thành, vợ chồng sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay không ai quan tâm tới ai. Chị Ngân làm đơn xin ly hôn, anh Th cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. HĐXX xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Ng và anh Th đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Vũ Thị Ng ly hôn anh Vương Văn Th là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về quan hệ nuôi con: Chị Vũ Thị Ng và anh Vương Văn Th có hai con chung là Vương Vũ Diệu L, sinh ngày 22/11/2009 và Vương Tiến Đ, sinh ngày 21/7/2012, hiện đang ở với ông bà nội. Xét thấy con chung của anh, chị hiện vẫn còn nhỏ và cùng có nguyện vọng được ở với chị Ng. Mặt khác anh Th đang ở nước ngoài, không có mặt ở Việt Nam, anh cũng nhất trí theo nguyện vọng của các con. HĐXX chấp nhận giao con chung Vương Vũ Diệu L và Vương Tiến Đ cho chị Ng trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ng không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng cho con.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ng, anh Th không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết. Sau này nếu các đương sự có yêu cầu giải quyết về tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn thì có quyền làm đơn đề nghị Tòa án có thẩm quyền giải quyết bằng vụ án khác.

[3]. Về án phí: Chị Vũ Thị Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Ng tự nguyện chịu cả tiền chi phí giám định, không đề nghị Tòa án giải quyết. Do vậy, HĐXX không xem xét giải quyết.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị Ng ly hôn anh Vương Văn Th.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao cho chị Vũ Thị Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Vương Vũ Diệu L, sinh ngày 22/11/2009 và Vương Tiến Đ, sinh ngày 21/7/2012 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ng không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng cho con.

Không ai được cản trở anh Vương Văn Th thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị Ng phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0002783 ngày 07 tháng 7 năm 2020 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị Ng được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Vương Văn Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 05/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn 

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;