Bản án 72/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 72/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 28/11/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án dân sự thụ lý số: 215/2019/TLST-HNGĐ, ngày 21 tháng 8 năm 2019, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 31/10/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ N, sinh năm 1989 (có mặt)

Địa chỉ: khóm 1, Phường 1, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Anh Dương Chí T, sinh năm 1988 (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp Giầy L, xã H, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 21/8/2019 cũng như quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ N trình bày: Vào năm 2011, chị N và anh Dương Chí T có tổ chức đám cưới, đến năm 2018 có đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân Phường 1, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 60/2018, ngày 16/05/2018. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian đầu và có 01 con chung là cháu Dương Chí N, sinh ngày 30/11/2011 (Nam). Đến ngày 17/7/2019 do bất đồng quan điểm sống, thường xảy ra cãi vã vợ chồng sống chung không còn hạnh phúc chị N về nhà cha mẹ ruột để sống tại, Khóm 1, Phường 1, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng còn anh T về nhà cha mẹ ruột để sống tại, ấp Giầy L, xã H, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng và sống ly thân từ đó đến nay.

Nay chị N nhận thấy tình cảm vợ chồng đã không còn, hạnh phúc hôn nhân tan vỡ không thể hàn gắn được do đó yêu cầu Tòa giải quyết cho chị N được ly hôn với anh T; Về con chung chị N yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Dương Chí N đến tuổi trưởng thành vì từ tháng 07 năm 2019 anh T đã bỏ con cho đến nay và do chị N nuôi dưỡng, chị N không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T, nhưng anh T không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của chị N, đồng thời anh T cũng không đến tham gia phiên hòa giải cũng như tham gia phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Tòa án chấp nhận cho chị N được ly hôn với anh T, giao cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng cháu Dương Chí N, ghi nhận sự tự nguyện của chị N không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung, về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai cho anh T, nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu khởi kiện của chị N, nhận thấy chị N và anh T tự nguyện chung sống với nhau năm 2011, có tổ chức lễ cưới, đến năm 2018 có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 1, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng và cấp giấy chứng nhận kết hôn số 60/2018, ngày 16/05/2018. Quan hệ hôn nhân của chị N và anh T không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nhưng sau một thời gian chung sống, đến tháng 07 năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do tính tình vợ chồng không còn hòa hợp, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn với nhau. Chị N nhận thấy cuộc sống chung không hạnh phúc, không còn tình cảm vợ chồng với anh T nên có nguyện vọng ly hôn. Chị N và anh T đã không còn chung sống với nhau từ tháng 07 năm 2019 đến nay. Hội đồng xét xử đã phân tích động viên chị N suy nghĩ lại, hàn gắn tình cảm vợ chồng với anh T, nhưng chị N vẫn cương quyết xin được ly hôn, từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị N được ly hôn với anh T.

[3] Về con chung: Chị N trình bày có 01 con chung tên Dương Chí N ,sinh ngày 30/11/2011 (Nam), chị N yêu cầu được nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành và cũng theo nguyện vọng của cháu N, nếu cha mẹ không còn chung sống với nhau cháu có nguyện vọng được sống với mẹ, chị N không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy từ ngày chị N và anh T không còn chung sống với nhau thì cháu N do chị N trực tiếp nuôi dưỡng và để đảm bảo cuộc sống của cháu N không bị xáo trộn, ảnh hưởng đến tâm sinh lý khi cha mẹ ly hôn với nhau. Do đó yêu cầu của chị N là phù hợp với điều kiện chăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên và phù hợp với quy định của Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Vì vậy, Hội đồng xét xử giao cháu Dương Chí N, sinh ngày 30/11/2011 (Nam) cho chị Nguyễn Thị Mỹ N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Ghi nhận sụ tự nguyện của chị N không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị N trình bày không có, không yêu cầu Tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiêm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Mỹ N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Khoản 3 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ N.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mỹ N được ly hôn với anh Dương Chí T.

- Về con chung: Giao con chung Dương Chí N, sinh ngày 30/11/2011 (Nam) cho chị Nguyễn Thị Mỹ N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu N đủ 18 tuổi.

Anh Dương Chí T không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở, anh Trung không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Dương Chí N của chị Nguyễn Thị Mỹ N thì chị N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị N trình bày không có, không yêu cầu Tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2/ Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Mỹ N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền ứng án phí chị N đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai số 0000519, ngày 21/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị N đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí. Anh Dương Chí T không phải chịu án phí sơ thẩm.

3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 72/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:72/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;