Công văn 8065/BTNMT-PC năm 2021 về chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành
Công văn 8065/BTNMT-PC năm 2021 về chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành
Số hiệu: | 8065/BTNMT-PC | Loại văn bản: | Công văn |
Nơi ban hành: | Bộ Tài nguyên và Môi trường | Người ký: | Trần Hồng Hà |
Ngày ban hành: | 29/12/2021 | Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật | Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
Số hiệu: | 8065/BTNMT-PC |
Loại văn bản: | Công văn |
Nơi ban hành: | Bộ Tài nguyên và Môi trường |
Người ký: | Trần Hồng Hà |
Ngày ban hành: | 29/12/2021 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật |
Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
BỘ
TÀI NGUYÊN VÀ |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 8065/BTNMT-PC |
Hà Nội, ngày 29 tháng 12 năm 2021 |
Kính gửi: |
- Ban Dân nguyện-Ủy ban Thường vụ
Quốc hội; |
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Công văn số 8243/VPCP-QHĐP ngày 10/11/2021 về việc trả lời kiến nghị của cử tri trước kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XV, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Tài nguyên và Môi trường xin trả lời kiến nghị của cử tri như sau:
Câu số 135. Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành tham mưu Chính phủ tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực để chủ động hoạch định chủ trương, giải pháp bảo đảm an ninh nguồn nước sông Mê Kông nhằm đáp ứng ổn định yêu cầu sản xuất, sinh hoạt cho Nhân dân vùng hạ lưu thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long (cử tri thành phố Cần Thơ)
a) Về Hiệp định Mê Công và hợp tác với các nước trong khu vực để chủ động hoạch định chủ trương, giải pháp bảo đảm an ninh nguồn nước sông Mê Công
Ngày 05/4/1995 tại Thái Lan, bốn quốc gia ở hạ lưu gồm Thái Lan, Lào, Việt Nam, Campuchia đã ký kết Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công (Hiệp định Mê Công) và cũng đã ký Nghị định thư đối với việc thành lập Ủy hội sông Mê Công quốc tế ngày nay. Hiệp định Mê Công là hợp tác trong tất cả các lĩnh vực phát triển bền vững, sử dụng, quản lý và bảo vệ tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan của lưu vực sông Mê Công, bao gồm các lĩnh vực chính sau: tưới, thủy điện, giao thông thủy, kiểm soát lũ, thủy sản, thả bè, giải trí và du lịch để đạt được mức tối ưu việc sử dụng đa mục tiêu và cùng có lợi cho tất cả các quốc gia ven sông và giảm tới mức thấp nhất các ảnh hưởng có hại gây ra bởi các hiện tượng tự nhiên và các hoạt động của con người. Để cụ thể hoá các quy định của Hiệp định Mê Công tạo điều kiện thực hiện hiệu quả Hiệp định, Ủy hội sông Mê Công quốc tế đã thông qua nhiều văn bản dưới Hiệp định sau: Thủ tục Trao đổi và Chia sẻ thông tin số liệu (PDIES); Thủ tục Giám sát sử dụng nước (PWUM); Thủ tục Duy trì dòng chảy trên dòng chính (PMFM); Thủ tục Chất lượng nước (PWQ). Các hướng dẫn kỹ thuật...
Sau 23 năm thực hiện Hiệp định Mê Công, Ủy hội đã hoàn thành một khối lượng lớn các văn bản (quy chế, thủ tục, sổ tay hướng dẫn, hướng dẫn kỹ thuật...) giúp giải thích và thực hiện hiệu quả các điều khoản quy định trong Hiệp định và đã hoàn thành 90% yêu cầu xây dựng văn bản pháp lý để thực hiện Hiệp định. Đây là một thành quả nổi bật mà các đối tác, các tổ chức quốc tế đặc biệt là các tổ chức lưu vực sông khác trên thế giới đều đánh giá cao và học tập.
Vừa qua, Ủy ban sông Mê Công Việt Nam đã trình Chính phủ dự thảo Quy chế làm việc của Hội đồng và Ủy ban Liên hợp, Chiến lược phát triển thủy điện bền vững và đã được Hội đồng Ủy hội thông qua tại phiên họp lần thứ 28 diễn ra vào cuối tháng 11 năm 2021.
Có thể thấy trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm chỉ đạo một cách sát sao các bộ, ngành liên quan như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Ngoại giao, các thành viên của Ủy ban sông Mê Công Việt Nam trong vấn đề hợp tác thực hiện có hiệu quả Hiệp định Mê Công. Việc thúc đẩy thực thi Hiệp định Mê Công và bộ Quy chế sử dụng nước đã hỗ trợ cho việc đảm bảo an ninh nguồn nước cho nước ta, cụ thể là Đồng bằng sông Cửu Long.
b) Về thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu và quy hoạch tài nguyên nước vùng đồng bằng sông Cửu Long
Năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã thay mặt Chính phủ ký ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Đây là Nghị quyết thể hiện tầm nhìn chiến lược với chủ trương phát triển "thuận thiên" để chủ động hoá giải các thách thức do biến đổi khí hậu và các hoạt động khai thác, sử dụng nguồn nước sông Mê Công, tận dụng tiềm năng, thế mạnh, tạo xung lực mạnh mẽ cho phát triển đồng bằng sông Cửu Long, với tinh thần lấy tài nguyên nước làm yếu tố cốt lỗi, là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển vùng.
Trong hơn 03 năm vừa qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành, địa phương trong việc ban hành mới, bổ sung, hoàn thiện một số cơ chế, chính sách cho riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đến nay, vùng đồng bằng sông Cửu Long đã có những thay đổi, chuyển mình theo hướng thuận thiên, bền vững; sinh kế, đời sống của nhân dân được từng bước cải thiện.
Sau khi Luật Quy hoạch được ban hành, với các yêu cầu và nội dung mới, hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang chủ trì xây dựng quy hoạch tổng thể vùng đồng bằng sông Cửu Long theo phương pháp tích hợp và các quy hoạch ngành, địa phương và quy hoạch tài nguyên nước vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng đang được Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng, dự kiến sẽ trình trong năm 2022 để đảm bảo tiến độ tích hợp vào quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đang trình Thủ tướng Chính phủ Đề án đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia, với quan điểm lấy tài nguyên nước là cốt lõi thì để bảo đảm an ninh nguồn nước đối với Đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh các tác động kép, cần tiếp tục kiên trì hợp tác, đấu tranh bằng các hình thức đa dạng, phù hợp, trên nhiều diễn đàn nhằm bảo đảm khai thác sử dụng công bằng hợp lý nguồn nước chung của 06 quốc gia trên lưu vực sông Mê Công và bảo đảm sử dụng nước ở bất kỳ một quốc gia nào cũng không được gây hại đáng kể cho các quốc gia khác.
c) Một số giải pháp trong thời gian tới
Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban sông Mê Công Việt Nam sẽ chủ động kiến nghị, đề xuất, thiết lập các khuôn khổ hợp tác mới trong huy động hiệu quả sự hỗ trợ về đầu tư, công nghệ và tri thức của các đối tác phát triển; khai thác sử dụng bền vững tài nguyên nước, đặc biệt trong tiểu vùng sông Mê Công đảm bảo lợi ích của Việt Nam. Tổ chức đàm phán, thuyết phục, đấu tranh để các quốc gia có các hồ chứa thủy điện kể cả ở dòng chính và dòng nhánh, cùng hợp tác trong việc vận hành phát điện, xả nước xuống hạ du, bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông ở mức phù hợp sẽ bảo đảm nguồn nước, hạn chế xâm nhập mặn, hạn chế suy giảm phù sa, nguồn lợi thủy sản cho đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, cũng cần tăng cường vai trò của Ủy ban sông Mê Công Việt Nam trong quản lý tổng hợp lưu vực sông Cửu Long và đảm bảo phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức, các nhà khoa học và cộng đồng tham gia trong quá trình ra quyết định và theo dõi, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng nước tại đồng bằng sông Cửu Long.
Câu số 136. Thủ tục chuyển đổi mục đích từ đất trồng lúa sang các mục đích khác theo quy hoạch tỉnh chưa được phân cấp nên dẫn đến việc chuyển đổi chậm. Cụ thể như: tổng nhu cầu chuyển mục đích đất trồng lúa trong kỳ quy hoạch (10 năm), được xác định khi lập quy hoạch tỉnh (phương án khoanh vùng và phân bổ đất đai) và được Chính phủ phê duyệt. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập Kế hoạch sử dụng đất 5 năm của tỉnh trình Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, khi thực hiện dự án cụ thể có sử dụng đất lúa từ 10 ha trở lên (đã nằm trong tổng diện tích đã được Chính phủ phê duyệt) lại phải tiếp tục lập thủ tục xin ý kiến chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ và trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có Nghị quyết về việc chuyển mục đích sử dụng đất (Điều 58 Luật Đất đai năm 2013). Kiến nghị nghiên cứu trình Chính phủ phân cấp thẩm quyền quyết định cho địa phương đối với diện tích đất trồng lúa đã được Chính phủ phê duyệt theo Quy hoạch tỉnh (cử tri tỉnh Ninh Thuận)
Theo quy định của pháp luật về đất đai thì “Đối với dự án có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng vào các mục đích khác mà không thuộc trường hợp được Quốc hội quyết định, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất khi có một trong các văn bản sau đây:
a) Văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng từ 10 héc ta đất trồng lúa trở lên; từ 20 héc ta đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng trở lên;
b) Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng dưới 10 héc ta đất trồng lúa; dưới 20 héc ta đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng.” Quy định như vậy nhằm góp phần kiểm soát việc sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng vào các mục đích khác góp phần bảo đảm an ninh lương thực và bảo vệ môi trường sinh thái.
Mặt khác, liên quan đến nội dung kiến nghị này, ngày 13/11/2021, Quốc hội đã ký ban hành Nghị quyết số 35/2021/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng, Nghị quyết số 36/2021/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An, Nghị quyết số 37/2021/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Thanh Hóa, trong đó có phân cấp cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận việc sử dụng đất trồng lúa 2 vụ trở lên với quy mô dưới 500 ha theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền quyết định. Trên cơ sở kết quả sơ kết, tổng kết việc thí điểm của các Nghị quyết nêu trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ nghiên cứu, đề xuất trong quá trình sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 trong thời gian tới.
Câu 137. Kiến nghị báo cáo Quốc hội có cơ chế đặc thù về thủ tục cấp phép, cho thuê đất, chuyển đổi rừng đối với các mỏ vật liệu san lấp cấp phép phục vụ Dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam theo Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày 16/6/2021 của Chính phủ theo hướng giảm tối đa các thủ tục hành chính mới đáp ứng được thời gian cấp phép, cho thuê đất để phục vụ dự án (cử tri tỉnh Thanh Hóa)
Nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc giải quyết nguồn nguyên liệu làm vật liệu san lấp cho dự án trọng điểm quốc gia cao tốc tuyến Bắc Nam phía Đông, Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày 16/6/2021 và số 133/NQ-CP ngày 19/10/2021 về việc áp dụng cơ chế đặc thù trong cấp phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường cung cấp cho dự án. Ngày 13/8/2021, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Công văn số 4994/BTNMT-PC về việc đề xuất nội dung vướng mắc, bất cập của một số Luật thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường cần phải sửa đổi, bổ sung. Trong đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường có đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của Luật Khoáng sản (về hồ sơ, trình tự thủ tục cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường theo hướng cắt, giảm, đơn giản hoá thành phần hồ sơ và trình tự thực hiện để bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính) trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của một số Luật. Nội dung này được Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục kiến nghị tại Báo cáo số 86/BC-BTNMT ngày 20/9/2021 gửi Thủ tướng Chính phủ về kết quả kiểm tra công tác quản lý, cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường cung cấp cho các dự án đường cao tốc tại các địa phương có dự án đi qua.
Bên cạnh đó, Bộ Giao thông vận tải đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng, trình Chính phủ để trình Quốc hội đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển đường bộ cao tốc giai đoạn 2021-2025, theo đó, đề xuất quy định thí điểm việc không phải đề nghị cấp giấy phép khai thác khoáng sản đối với trường hợp nhà đầu tư, nhà thầu thi công xây dựng được cấp quyền khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường (đất, cát, đá) mà sản phẩm khai thác chỉ sử dụng cho các dự án đường bộ cao tốc1.
Câu 138. Cử tri kiến nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành liên quan và các địa phương có giải pháp thiết thực, cụ thể hơn, trách nhiệm hơn để bảo vệ các dòng sông và tài nguyên nước, khoáng sản tại các lưu vực sông; cần tăng thẩm quyền cho cơ quan có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo thống nhất tất cả các hoạt động bảo vệ, quản lý tài nguyên lưu vực sông hiện nay (Cử tri thành phố Hải Phòng)
Liên quan đến công tác quản lý các hoạt động trong phạm vi lòng, bờ, bãi sông, Luật Tài nguyên nước có các quy định về đảm bảo sự lưu thông của dòng chảy tại Điều 30, quy định về hành lang bảo vệ nguồn nước tại Điều 31 và quy định về phòng, chống sạt, lở bờ bãi sông tại Điều 63. Các văn bản dưới Luật có Nghị định số 43/2015/NĐ-CP về quản lý, lập hành lang bảo vệ nguồn nước và Nghị định số 23/2020/NĐ-CP quy định về cát, sỏi lòng sông và bảo vệ lòng, bờ, bãi sông.
a) Một số công tác quản lý đã và đang thực hiện về quản lý, bảo vệ lòng, bờ, bãi sông, hành lang bảo vệ nguồn nước và tài nguyên nước, khoáng sản tại các lưu vực sông
- Về quản lý khai thác cát sỏi và bảo vệ lòng, bờ, bãi sông
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 23/2020/NĐ-CP ngày 24/02/2020 của Chính phủ về quản lý khai thác cát, sỏi và bảo vệ lòng, bờ bãi sông, ngày 22/9/2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Văn bản số 5195/BTNMT-TNN đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức thực hiện Nghị định nêu trên. Tuy nhiên, thực tế tại nhiều địa phương vẫn có tình trạng san, lấp, kè bờ, lấn sông, cải tạo cảnh quan các vùng đất ven sông hoặc hoạt động khai thác khoáng sản, cát, sỏi lòng sông gây ra hiện tượng sạt, lở bờ sông. Do đó, để bảo vệ lòng, bờ, bãi sông, đảm bảo sự lưu thông của dòng chảy, Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục có Công văn đôn đốc số 2077/BTNMT-TNN ngày 05/5/2021 gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc đôn đốc thực hiện Nghị định số 23/2020/NĐ-CP của Chính phủ trong đó lưu ý khi thẩm định đánh giá tác động môi trường đối với các dự án khai thác cát, sỏi và cải tạo cảnh quan cần tuân thủ đầy đủ về thẩm quyền, quy định kỹ thuật và các yêu cầu về bảo vệ lòng, bờ, bãi sông.
- Về quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước
Thực hiện quy định của Nghị định số 43/2015/NĐ-CP ngày 06/5/2015 của Chính phủ quy định về lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã triển khai thực hiện trách nhiệm đôn đốc các địa phương trong công tác quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước, cụ thể: Nghị định quy định danh mục nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ phải hoàn thành trong thời hạn không quá hai (02) năm kể từ ngày Nghị định có hiệu lực (01/7/2015). Do đó, ngày 03/3/2017 Bộ đã có văn bản số 873/BTNMT-TNN gửi các tỉnh đề nghị báo cáo về tình hình thực hiện Nghị định số 43/2015/NĐ-CP. Theo đó, tính đến tháng 8 năm 2021, cả nước đã có 40/63 tỉnh đã phê duyệt Danh mục nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ, trong đó có 18 tỉnh đang triển khai cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước, 14 tỉnh đang lập danh mục nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ để trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
Ngoài ra, liên quan về công tác phòng, chống khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra, cụ thể là phòng, chống hạn hán, lũ lụt, ngập úng nhân tạo, tại Điều 60 Luật Tài nguyên nước đã quy định hồ, ao, đầm, phá không được san lấp để phòng, chống ngập, úng và bảo vệ nguồn nước và quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công bố danh mục hồ, ao, đầm, phá không được san lấp trong phạm vi địa phương. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Công văn đôn đốc số 3129/BTNMT-TNN ngày 10/6/2021 gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về việc lập danh mục hồ ao không được san lấp. Tính đến nay cả nước có 21/63 tỉnh, thành phố đã lập danh mục hồ ao không được san lấp với 4481 hồ, ao đầm (3049 hồ, 1307 ao, 122 đầm và 03 hồ ao là di tích lịch sử).
Trước thực tế, trên cùng một dòng sông, đoạn sông đang được nhiều cơ quan quản lý như tài nguyên nước, thuỷ lợi, giao thông, đất đai, xây dựng... theo yêu cầu của quản lý chuyên ngành (pháp luật về giao thông đường thuỷ nội địa điều chỉnh luồng lạch và phần sông có công trình thủy; pháp luật đê điều, phòng chống thiên tai điều chỉnh phần bờ và bãi sông có đê...), khi xảy ra xói lở, sạt lở bờ thì phần phòng do ngành tài nguyên và môi trường thực hiện, tuy nhiên phần chống lại do ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện. Bên cạnh đó, các vấn đề mang tính liên ngành, liên tỉnh, địa phương như: quy hoạch, phát triển, khôi phục rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn sinh thủy; bảo vệ nguồn nước trong quá trình thực hiện các dự án thủy điện, thủy lợi, nuôi trồng thủy sản... chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa cơ quan quản lý tài nguyên nước với các cơ quan, bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh nhất là còn sự giao thoa, chưa làm rõ được đối tượng quản lý về nguồn nước và công trình thủy lợi giữa lĩnh vực tài nguyên nước và thủy lợi.
Vì vậy, để tăng cường vai trò của cơ quan quản lý tài nguyên nước về thống nhất các hoạt động bảo vệ, quản lý tài nguyên lưu vực sông hiện nay, trong đề nghị xây dựng dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), dự kiến trình Quốc hội khóa XV xem xét trong năm 2023, Bộ kiến nghị bổ sung chính sách quy định liên quan đến bảo vệ lòng, bờ bãi sông, đặc biệt là bổ sung quy định về phạm vi bảo vệ và Luật hoá các quy định về hành lang, quy định về khai thác cát, sỏi lòng sông và bảo vệ lòng, bờ, bãi sông ở các văn bản dưới Luật, cụ thể bổ sung theo hướng: mở rộng phạm vi của vùng quản lý sông theo đó gồm cả vùng đê và vùng thực vật ven đê; tăng cường vai trò quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước, theo đó, tất cả các hoạt động có liên quan đến đất và nước trong vùng sông phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý sông được chỉ định cụ thể bất kỳ tổ chức/cá nhân có ý định xây dựng, tái tạo hoặc dỡ bỏ công trình trên đất trong vùng sông phải được sự cho phép của cơ quan quản lý sông và chỉ được sử dụng sau khi được kiểm tra bởi cơ quan quản lý sông.
Câu số 139. Theo quy định tại điểm e, khoản 2, Điều 10 của Luật Đất đai năm 2013 thì đất chợ là một trong các loại đất sử dụng vào mục đích công cộng, khi giao đất, cho thuê đất không phải tiến hành đấu thầu hoặc đấu giá, nên doanh nghiệp đầu tư xây dựng, kinh doanh khai thác và quản lý chợ không thông qua hình thức đấu thầu, đấu giá. Tuy nhiên, kể từ khi Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai được ban hành (cụ thể là điều 14b) và Nghị định số 25/2020/NĐ-CP ngày 28/02/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thì yêu cầu nhà đầu tư chợ phải đấu thầu hoặc đấu giá vì cho rằng đất xây dựng chợ là sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ. Vì vậy, hiện nay có một số dự án chợ đang gặp khó khăn trong triển khai thực hiện đầu tư xây dựng, kinh doanh khai thác và quản lý. Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ: Công Thương, Tài nguyên và Môi trường, Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu thống nhất vấn đề này để tạo thuận lợi cho nhà đầu tư xây dựng chợ hoạt động kinh doanh (cử tri tỉnh Bến Tre)
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai thì quỹ đất sau khi hoàn thành việc bồi thường, giải phóng mặt bằng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật Đất đai năm 2013 hoặc giao đất, cho thuê đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất đối với trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 118 của Luật Đất đai năm 2013; không quy định về giao đất, cho thuê đất thông qua hình thức đấu thầu dự án có sử dụng đất.
Theo quy định tại điểm e, khoản 2, Điều 10, khoản 2 Điều 54 và điểm đ khoản 1 Điều 56 Luật Đất đai thì Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với trường hợp đất chợ mà không nhằm mục đích kinh doanh, cho thuê đất đối với trường hợp đất chợ mà có mục đích kinh doanh.
Theo quy định tại điểm e mục I.2 Phụ lục I Nghị định số 06/2021/NĐ-CP ngày 26/01/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số nội dung về quản lý chất lượng, thi công xây dựng và bảo trì công trình xây dựng (thay thế cho Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng), công trình chợ nói chung (không phân biệt cấp loại) thuộc phân loại công trình thương mại.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2021/NĐ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số nội dung về quản lý dự án đầu tư xây dựng quy định phân loại dự án đầu tư xây dựng theo công năng phục vụ của dự án, tính chất chuyên ngành, mục đích quản lý của công trình thuộc dự án đầu tư xây dựng được phân loại theo quy định tại Phụ lục IX Nghị định này. Theo đó, các dự án đầu tư xây dựng công trình thương mại, dịch vụ được phân loại là công trình dân dụng nhằm phục vụ cho các hoạt động, nhu cầu về vật chất và tinh thần của đời sống nhân dân.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị định số 25/2020/NĐ-CP ngày 28/02/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư quy định "Dự án đầu tư có sử dụng đất để xây dựng nhà ở thương mại; công trình thương mại, dịch vụ; công trình đa năng, tổ hợp đa năng cho mục đích kinh doanh" thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này. Hình thức lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án đầu tư có sử dụng đất và điều kiện để xác định dự án đầu tư có sử dụng đất được quy định tại Điều 10, Điều 11 Nghị định số 25/2020/NĐ-CP.
Ngoài ra, khoản 12 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP (bổ sung Điều 14b Nghị định số 43/2014/NĐ-CP) quy định trường hợp được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất một số năm hoặc miền toàn bộ thời hạn sử dụng đất đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư hoặc địa bàn ưu đãi đầu tư thì cơ quan có thẩm quyền thực hiện giao đất, cho thuê đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, không thông qua đấu thầu dự án sử dụng đất, trừ dự án sử dụng đất vào mục đích thương mại, dịch vụ.
Như vậy, các quy định pháp luật hiện hành đã cơ bản thống nhất việc áp dụng hình thức đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư đối với các công trình thương mại, dịch vụ, trong đó có bao gồm công trình chợ nói chung không phân biệt cấp loại. Ngoài ra, ngày 23/11/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị số 30/CT-TTg về việc đẩy mạnh triển khai thi hành văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư và đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Trong đó, Bộ Công Thương chịu trách nhiệm ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện các nội dung về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư đối với các dự án phát triển và quản lý chợ, hoàn thành trong Quý I năm 2022. Thực hiện nhiệm vụ được giao, hiện nay, Bộ Công Thương đang được Chính phủ giao chủ trì xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 02/2003/NĐ-CP và Nghị định số 114/2009/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ theo hướng thống nhất với các quy định hiện hành về việc lựa chọn nhà đầu tư các dự án đầu tư kinh doanh chợ.
Câu số 140. Liên quan đến tình trạng công ty, nhà máy xả nước thải, rác thải, chất thải rắn công nghiệp ra môi trường, cử tri đề nghị cần có chế tài nghiêm khắc để khắc phục tình trạng trên. (cử tri tỉnh Bình Dương)
Trong thời gian vừa qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 55/2021/NĐ-CP ngày 24/5/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 155/2016/NĐ-CP. Theo đó, hành vi vi phạm về xả chất thải vượt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường sẽ bị xử phạt tối đa đến 02 tỷ đồng đối với tổ chức. Ngoài ra, Nghị định cũng đã quy định xử phạt hành vi xây lắp, lắp đặt thiết bị, đường ống hoặc các đường thải khác để xả chất thải không qua xử lý ra môi trường với mức phạt mang tính răn đe. Bên cạnh việc xử phạt bằng hình thức phạt tiền, còn áp dụng các biện pháp xử phạt bổ sung đình chỉ hoạt động gây ô nhiễm môi trường của cơ sở, đình chỉ hoạt động của cơ sở và buộc khắc phục hậu quả theo quy định.
Đặc biệt, tại Điều 6 của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022) đã quy định hành vi vận chuyển, chôn lấp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; xả nước thải, xả khí thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường ra môi trường là một trong các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động bảo vệ môi trường. Đây là một trong những điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 so với Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, thể hiện quan điểm mạnh mẽ, cần ngăn chặn, xử lý nghiêm đối với các hành vi cố tình vi phạm, hậu quả ô nhiễm môi trường.
Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang chủ trì xây dựng Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường để phù hợp với quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính; đang gửi Bộ Tư pháp để thẩm định trước khi trình Chính phủ xem xét, ban hành. Bám sát tinh thần của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 để đảm bảo tính răn đe đối với các hành vi cố tình vi phạm, gây hậu quả xấu tới môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đề xuất tăng mức phạt lên tối đa (02 tỷ đồng đối với vi phạm của tổ chức) đối với hành vi cố tình xả trộm, xả lén, cố tình lắp đặt các thiết bị, đường ống xả hoặc các đường thải khác để xả chất thải không qua xử lý ra môi trường hoặc không xây lắp công trình bảo vệ môi trường; đồng thời áp dụng biện pháp xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép môi trường, buộc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm, trong đó có biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp khắc phục hậu quả vi phạm, trong đó có biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp đối với nhóm hành vi này. Ngoài các chế tài xử phạt vi phạm hành chính, các vi phạm về xả thải, đổ thải thuộc trường hợp hành vi tội phạm về môi trường sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của Bộ Luật Hình sự.
Câu số 141. Đề nghị ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích tích tụ đất đai, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, chế biến nông sản, sản xuất công nghệ cao, quy mô lớn, hàng hoá có sức cạnh tranh, kết nối thị trường giúp nông dân và hướng đến xuất khẩu (cử tri tỉnh Hà Tĩnh)
Thực tế hiện nay quỹ đất để Nhà nước tiếp tục giao cho hộ gia đình, cá nhân là còn rất hạn chế nên hạn mức giao được sử dụng để làm căn cứ tính hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất tại Điều 130 của Luật Đất đai, theo đó hộ gia đình, cá nhân có thể nhận chuyển quyền lên đến 30 ha đối với đất trồng cây hàng năm, 300 ha đất nông nghiệp trồng cây lâu năm. Ngoài ra, nếu có nhu cầu sản xuất lớn hơn có thể thành lập doanh nghiệp để thực hiện dự án, sẽ không bị hạn chế.
Các nội dung liên quan đến tập trung, tích tụ đất nông nghiệp là các vấn đề lớn liên quan đến chủ trương, chính sách của Đảng về đất nông nghiệp, do đó sẽ được rà soát tổng thể khi sửa đổi Luật Đất đai.
Câu số 142. Cử tri phản ánh: trong giới hạn phần đất của đường bộ, hành lang đường bộ, Nhà nước chưa thực hiện đền bù "tầm ảnh hưởng” của việc quản lý hành lang an toàn giao thông mà vẫn xác lập vi phạm xây dựng, sử dụng hành lang ngoài mục đích giao thông, điều này mâu thuẫn với quyền sử dụng đất của người dân được quy định tại Luật Đất đai (đất sử dụng cho giao thông thuộc quyền sử dụng đất của nhân dân, nhân dân đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), đề nghị Chính phủ có giải pháp tháo gỡ (cử tri tỉnh Hải Dương)
Theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 thì: Đất của đường bộ là phần đất trên đó công trình đường bộ được xây dựng và phần đất dọc hai bên đường bộ để quản lý, bảo trì, bảo vệ công trình đường bộ; hành lang an toàn đường bộ là dải đất dọc hai bên đất của đường bộ, tính từ mép ngoài đất của đường bộ ra hai bên để bảo đảm an toàn giao thông đường bộ.
Phạm vi đất dành cho đường bộ được quy định tại Điều 43 Luật Giao thông đường bộ, theo đó, "Phạm vi đất dành cho đường bộ gồm đất của đường bộ và hành lang an toàn đường bộ. Trong phạm vi đất dành cho đường bộ, không được xây dựng các công trình khác, trừ một số công trình thiết yếu không thể bố trí ngoài phạm vi đó nhưng phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép; người đang sử dụng đất được pháp luật thừa nhận mà đất đó nằm trong hành lang an toàn đường bộ thì được tiếp tục sử dụng đất theo đúng mục đích đã được xác định và không được gây cản trở cho việc bảo vệ an toàn công trình đường bộ; Trường hợp việc sử dụng đất gây ảnh hưởng đến việc bảo vệ công trình đường bộ thì chủ công trình và người sử dụng đất phải có biện pháp khắc phục, nếu không khắc phục được thì Nhà nước thu hồi và bồi thường theo quy định của pháp luật".
Tại Điều 53 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Việc Nhà nước quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất theo quy định của Luật này và phải thực hiện xong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật đối với trường hợp phải giải phóng mặt bằng”.
Theo quy định tại điểm c khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013 thì Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng trong các trường hợp thực hiện các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật giao thông cấp quốc gia do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư mà phải thu hồi đất hoặc thực hiện các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận mà phải thu hồi đất xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật giao thông của địa phương.
Tại Điều 94 Luật Đất đai năm 2013 quy định về bồi thường thiệt hại đối với đất thuộc hành lang an toàn khi xây dựng công trình có hành lang bảo vệ an toàn: “Khi Nhà nước xây dựng công trình công cộng, quốc phòng, an ninh có hành lang bảo vệ an toàn mà không thu hồi đất nằm trong phạm vi hành lang an toàn thì người sử dụng đất được bồi thường thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất, thiệt hại tài sản gắn liền với đất theo quy định của Chính phủ”.
Tại Điều 10 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã quy định chi tiết việc bồi thường thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất, thiệt hại tài sản gắn liền với đất thuộc hành lang an toàn khi xây dựng công trình có hành lang không làm thay đổi mục đích sử dụng đất nhưng làm hạn chế khả năng sử dụng đất; bồi thường thiệt hại do phải giải tỏa nhà ở, công trình xây dựng khác và các tài sản khác gắn liền với đất; bố trí tái định cư đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở trong hành lang an toàn phải di chuyển chỗ ở.
Căn cứ các quy định nêu trêu, đất đang có người sử dụng mà Nhà nước thu hồi đất làm đường giao thông thì người sử dụng đất hợp pháp được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định. Đối với phần diện tích đất thuộc hành lang an toàn đường giao thông thì Nhà nước không thu hồi đất và người sử dụng đất tiếp tục được sử dụng đất; tuy nhiên, để bảo đảm an toàn cho mọi người tham gia giao thông thì Nhà nước sẽ hạn chế việc sử dụng đất theo quy định pháp luật chuyên ngành và người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản hợp pháp sẽ được bồi thường thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất.
Đối với việc xây dựng công trình phải đáp ứng các điều kiện cấp phép xây dựng quy định tại các Điều 91, 92, 93 và Điều 94 Luật Xây dựng năm 2014 được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Luật Kiến trúc năm 2019 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng năm 2020. Một trong những điều kiện quan trọng để cấp giấy phép xây dựng là: bảo đảm an toàn cho công trình, công trình lân cận và yêu cầu về bảo vệ môi trường, phòng, chống cháy, nổ; bảo đảm an toàn hạ tầng kỹ thuật, hành lang bảo vệ công trình thủy lợi, đê điều, năng lượng, giao thông, khu di sản văn hóa, di tích lịch sử - văn hóa; bảo đảm khoảng cách an toàn đến công trình dễ cháy, nổ, độc hại và công trình quan trọng có liên quan đến quốc phòng, an ninh.
Như vậy, việc cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương chưa thực hiện bồi thường thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất nhưng vẫn xác lập vi phạm xây dựng, sử dụng hành lang ngoài mục đích giao thông (nếu có) như cử tri phản ánh là cần thiết để bảo đảm hành lang bảo vệ công trình. Do nội dung cử tri phản ánh chưa đầy đủ thông tin (thời điểm và quá trình sử dụng đất, thời điểm cơ quan Nhà nước thực hiện làm đường giao thông, thời điểm công bố cắm mốc hành lang an toàn giao thông) nên việc bồi thường thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất trong hành lang bảo vệ công trình, đề nghị cử tri phản ánh với chính quyền địa phương và cơ quan quản lý công trình để được giải đáp cụ thể.
Câu số 143. Đề nghị Chính phủ kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai tương thích, đồng bộ và thống nhất giữa các quy định với Luật Lâm nghiệp. Hiện nay, đối tượng cho thuê là đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất được quy định tại khoản 5 Điều 137, khoản 4 Điều 136 và khoản 2 Điều 135 của Luật Đất đai; trong khi đó tại Điều 17 của Luật Lâm nghiệp chỉ quy định về cho thuê rừng sản xuất (rừng phòng hộ, đặc dụng chỉ thực hiện cho thuê môi trường rừng), không quy định cho thuê rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Như vậy, quy định cho thuê đất và cho thuê rừng chưa đồng bộ, thống nhất giữa Luật Đất đai và Luật Lâm nghiệp. Ngoài ra, về thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều 58 của Luật Đất đai và thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng quy định tại Điều 20 của Luật Lâm nghiệp vẫn chưa đồng bộ, thống nhất giữa 02 Luật (cử tri tỉnh Tây Ninh)
Nội dung bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường tổng hợp trong quá trình tổng kết thi hành Luật Đất đai năm 2013. Bộ Tài nguyên và Môi trường xin ghi nhận để nghiên cứu, đề xuất trong quá trình sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 trong thời gian tới.
Câu số 144. Hiện nay, tình trạng ô nhiễm nguồn nước sông Đáy, sông Nhuệ, sông Châu Giang trên địa bàn tỉnh Hà Nam chủ yếu do nguồn nước từ địa bàn Thành phố Hà Nội chảy về, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sức khỏe của nhân dân. Vì vậy, cử tri tiếp tục đề nghị với Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành ở Trung ương, Thành phố Hà Nội quan tâm kiểm tra, giám sát việc xử lý, xả thải ra môi trường của các đơn vị, doanh nghiệp sản xuất, để đảm bảo nguồn nước thải ra môi trường đảm bảo tiêu chuẩn quy định (cử tri tỉnh Hà Nam)
Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nước sông Đáy, sông Nhuệ, sông Châu Giang cũng như các sông khác trên lưu vực sông Nhuệ- sông Đáy đòi hỏi sự quyết tâm và phối hợp chặt chẽ của tất cả 05 tỉnh, thành phố trên lưu vực và sự vào cuộc của Chính phủ cũng như các Bộ, ngành Trung ương. Đặc biệt đối với tình trạng ô nhiễm nguồn nước sông Đáy, sông Nhuệ, sông Châu Giang trên địa bàn tỉnh Hà Nam chủ yếu do nguồn nước từ địa bàn thành phố Hà Nội chảy về, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống sức khoẻ của nhân dân. Chính vì thế, trong thời gian qua, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, địa phương tiếp tục phối hợp khẩn trương triển khai thực hiện các giải pháp, cụ thể như sau:
a) Đối với Bộ Tài nguyên và Môi trường
- Tiếp tục hướng dẫn thực hiện quy định về điều tra, đánh giá sức chịu tải của sông theo Thông tư số 76/2017/TT-BTNMT ngày 29/12/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định đánh giá khả năng tiếp nhận và đánh giá sức chịu tải của sông, hồ; tiếp tục hướng dẫn và thực hiện điều tra thống kê nguồn nước thải trên lưu vực sông; triển khai Kế hoạch triển khai đề án tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1435/QĐ-TTg ngày 18/8/2014. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai Đề án tổng thể lưu vực sông tại các địa phương thuộc lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy.
- Chủ trì xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra cấp Bộ hàng năm đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ; phối hợp với các bộ/ngành liên quan và 05 tỉnh thuộc lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy để thực hiện; tập trung các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ có hoạt động xả nước thải có lưu lượng nước thải từ 100m3/ngày đêm trở lên trực tiếp vào lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy.
- Thúc đẩy các chương trình, dự án liên vùng, liên tỉnh nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy; giám sát môi trường nước sông Nhuệ - sông Đáy liên tỉnh; xem xét mô hình xử lý nước thải sinh hoạt phi tập trung theo hướng xã hội hóa.
b) Đối với các tỉnh trên lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy
- Chủ động điều tra, thống kê và xây dựng cơ sở dữ liệu nguồn thải; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, tập trung vào các cơ sở có lưu lượng xả thải 100m3/ngày đêm trở lên; tập trung xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
- Yêu cầu 100% các khu công nghiệp phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung; các khu công nghiệp và các nguồn thải lớn từ 1000m3/ngày đêm trở lên phải lắp đặt trạm quan trắc tự động liên tục, truyền số liệu về cơ quan quản lý nhà nước để giám sát; chỉ cho phép các cụm công nghiệp có đầu tư hạ tầng kỹ thuật và hệ thống xử lý nước thải tập trung mới được thu hút đầu tư, hoạt động.
- Chủ động, tích cực giải quyết các vấn đề môi trường liên ngành, liên tỉnh đặc biệt là chương trình phối hợp nhằm kiểm soát ô nhiễm nước sông liên tỉnh vào mùa khô; các hoạt động gây ô nhiễm tại các bến cảng, bến thủy nội địa trên sông.
- Triển khai đồng bộ các nhiệm vụ bảo vệ môi trường lưu vực sông theo kết luận tại phiên họp của Ủy ban bảo vệ môi trường sông Nhuệ - sông Đáy tại Thông báo số 140/TB-UBSNĐ ngày 12/12/2019.
c) Đối với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội
- Chỉ đạo Công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhà nước Một thành viên thoát nước Hà Nội thực hiện nghiêm quy trình vận hành cống Thanh Liệt theo thoả thuận giữa thành phố Hà Nội và tỉnh Hà Nam, không mở cửa cống vào những tháng mùa khô; vận hành Trạm bơm Yên Sở để bơm nước thải ra sông Hồng.
- Chỉ đạo Công ty Khai thác công trình thủy lợi sông Nhuệ cho mở cống Liên Mạc để lấy nước sông Hồng bổ sung nhằm làm tăng lưu lượng nước sông Nhuệ và pha loãng nồng độ các chất ô nhiễm.
- Đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án xử lý nước thải và cải tạo, nạo vét hệ thống thủy lợi trên sông Nhuệ - sông Đáy như: Dự án đầu tư xây dựng công trình đầu mới Liên Mạc theo hình thức hợp đồng BT, Nhà máy xử lý nước thải Yên Xá, các dự án hạ tầng kỹ thuật và cảnh quan môi trường thuộc hành lang sông Nhuệ...
Hiện nay, thành phố Hà Nội đã triển khai công tác vận hành có hiệu quả đối với trạm bơm tiêu nước vào sông Nhuệ (đoạn giáp ranh giới với tỉnh Hà Nam), đập điều tiết nước nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của nước thải của thành phố Hà Nội xả từ sông Tô Lịch qua đập Thanh Liệt xuống khu vực hạ lưu thuộc tỉnh Hà Nam.
d) Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam và thành phố Hà Nội
- Đối với các dòng sông, đoạn sông đang bị ô nhiễm trên hệ thống sông Nhuệ, sông Châu Giang: Tạm thời dừng các hoạt động khai thác, sử dụng nguồn nước sông bị ô nhiễm cho mục đích sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt cho đến khi chất lượng nước được cải thiện; rà soát điều chỉnh lại kế hoạch lấy nước đổ ải cho phục vụ sản xuất nông nghiệp vụ Đông Xuân.
- Chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Tổng cục Môi trường tổ chức quan trắc môi trường nước sông trên địa bàn, thông báo kịp thời kết quả quan trắc để các cơ quan, tổ chức và người dân sử dụng nguồn nước biết và chủ động kế hoạch sản xuất, sinh hoạt, tập trung vào các điểm từ hợp lưu sông Tô Lịch - sông Nhuệ, sông Nhuệ - sông Châu Giang tại Cống Thần xuống đến cầu Đập Phúc, qua Lý Nhân và vị trí chảy ra sông Hồng.
đ) Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã rà soát quy hoạch thủy lợi cấp nước, tiêu nước, lưu vực sông Đáy và đã được phê duyệt tại Quyết định số 5205/QĐ-BNN-TCTL ngày 27/12/2018; đã triển khai quy hoạch tiêu nước sông Nhuệ tại Quyết định số 937/QĐ-TTg ngày 01/7/2009, cụ thể như sau:
- Nạo vét trục chính sông Nhuệ đoạn từ Hà Đông đến Đồng Quan tăng khả năng tiêu thoát; nạo vét các kênh tiêu cấp 2 thuộc hệ thống (kênh tiêu T1, La Khê, Cổ Nhuế, Đồng Bông); hoài thành trạm bơm Yên Sở giai đoạn 2, nâng công suất lên 90m3/s, đảm bảo tiêu thoát cho lưu vực sông Tô Lịch với diện tích 7.530 ha và hỗ trợ tiêu nước cho khu vực Hà Đông, Thanh Trì thông qua cống Thanh Liệt; hoàn thành trạm bơm Ngoại Đô 2 với công suất 5 x 22.000 m3/h để cùng với trạm bơm Ngoại Đô 1 tiêu cho 9.220 ha khu vực huyện Ứng Hoà; hoàn thành trạm bơm Lạc Tràng 2 với công suất 12 x 4.000 m3/h tiêu nước cho khu công nghiệp Đồng Văn và các khu đô thị thuộc thành phố Phủ Lý và 3 trạm bơm khác (Hoành Uyển công suất 4x4.000 m3/h, Bùi 1 công suất 5x4.000m3/h, Bùi 2 công suất 4x4.000m3/h); đã hoàn thành đầu mối trạm bơm Yên Nghĩa với công suất 120m3/s tiêu nước cho 6.300 ha khu vực huyện Hoài Đức, các quận Hà Đông, Bắc Từ Liêm, Nam Từ Liêm, đang hoàn thiện hệ thống kênh; đang triển khai xây dựng trạm bơm Liên Mạc giai đoạn 1 với công suất 70m3/s, trạm bơm Đông Mỹ với công suất 35m3/s.
e) Về các giải pháp tổng thể, lâu dài bảo vệ môi trường nước lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy
Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nước sông Đáy, sông Nhuệ, sông Châu Giang cũng như các sông khác trên lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy đòi hỏi sự quyết tâm và phối hợp chặt chẽ của tất cả 05 tỉnh, thành phố trên lưu vực và sự vào cuộc của Chính phủ cũng như các Bộ, ngành Trung ương. Trong thời gian tới, các giải pháp tổng thể, lâu dài bảo vệ môi trường nước lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy cụ thể như sau:
- Tiếp tục tăng cường đầu tư mạng lưới quan trắc môi trường trên địa bàn, đặc biệt là các trạm quan trắc môi trường nước tự động, kết hợp với các trạm quan trắc của Trung ương đầu tư, tăng cường năng lực, cơ sở vật chất cho công tác quan trắc, phân tích, giám sát mới trường. Hoàn thiện và triển khai thực hiện giám sát, quản lý môi trường trực tuyến của toàn lưu vực sông, sớm hoàn chỉnh hệ thống tiếp nhận dữ liệu quan trắc tự động liên tục từ các đối tượng phải triển khai theo quy định trên địa bàn, khuyến khích xây dựng hệ thống giám sát nước thải tự động.
- Đẩy nhanh tiến độ triển khai thống kê, cập nhật dữ liệu nguồn thải nước thải, xây dựng kế hoạch quản lý, xử lý nguồn thải nước thải trên lưu vực sông, công khai thông tin về nguồn thải trên cổng thông tin môi trường lưu vực sông.
- Tập trung quyết liệt vào công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, kể cả biện pháp đình chỉ hoạt động hoặc đóng cửa. Buộc tất cả các khu, cụm công nghiệp xây dựng mới phải hoàn thành hệ thống xử lý nước thải trước khi đi vào hoạt động. Tổ chức di dời và hỗ trợ di dời các cơ sở sản xuất nằm xen lẫn trong các khu dân cư, vùng đô thị vào các khu, cụm công nghiệp tập trung. Tăng cường công tác thẩm định, cấp phép nhằm phát huy hiệu quả trong công tác phòng ngừa ô nhiễm, đặc biệt chú trọng công tác hậu kiểm.
- Tăng cường xúc tiến đầu tư, đa dạng hoá các nguồn đầu tư để triển khai các nhiệm vụ, dự án có liên quan trên lưu vực sông. Các dự án tập trung vào các lĩnh vực: thoát nước đô thị, xử lý nước thải đô thị và khu dân cư tập trung; cải tạo, phục hồi môi trường trong những đoạn sông, kênh, rạch bị ô nhiễm nghiêm trọng; đầu tư cho hệ thống xử lý chất thải rắn, chất thải y tế; nạo vét và khơi thông dòng chảy... Đặc biệt là việc thúc đẩy các dự án thoát nước, xử lý nước thải đô thị và vệ sinh môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Triển khai Đề án đánh giá sức chịu tải/khả năng tiếp nhận nước thải của lưu vực sông Nhuệ - Đáy phục vụ quy hoạch bảo vệ môi trường lưu vực sông. Triển khai quy hoạch hệ thống thoát nước và xử lý nước thải khu vực dân cư, khu công nghiệp trên lưu vực sông và quy hoạch quản lý chất thải rắn trên lưu vực sông.
Câu số 145. a) Theo các quy định hiện hành thì sự liên kết, cập nhật giữa Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của Luật Đất đai với Quy hoạch đô thị, Quy hoạch xây dựng của ngành xây dựng chưa được quy định cụ thể quy hoạch nào trước, quy hoạch nào phải theo quy hoạch nào, gây khó khăn trong việc thực hiện. Từ thực tế trên, cử tri đề nghị Chính phủ xem xét, chỉ đạo nghiên cứu để có quy định, hướng dẫn cụ thể.
b) Đối với các đô thị, đô thị mới, khu chức năng, quy hoạch chung xây dựng xã đều được lập các đồ án quy hoạch chung xây dựng, quy hoạch phân khu với tầm nhìn dài hạn từ 10 năm đến 25 năm nên các định hướng về quy hoạch sử dụng đất phát triển các khu chức năng, đất xây dựng đô thị, đất xây dựng điểm dân cư nông thôn, hệ thống giao thông được nghiên cứu và định hướng trong các đồ án quy hoạch đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các đô thị, các khu chức năng và các xã; các đồ án quy hoạch chung đều được thông qua Hội đồng nhân dân các cấp trước khi phê duyệt. Do đó, cử tri đề nghị Chính phủ xem xét, chỉ đạo bổ sung quy định trong văn bản quy phạm pháp luật về đất đai nội dung “lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải phù hợp với quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị” nhằm đảm bảo tính thống nhất trong công tác quản lý quy hoạch và quản lý đất đai.
c) Tại khoản 3, Điều 16 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 148/2020/NĐ-CP) quy định trường hợp tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư phi nông nghiệp thì phải có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận việc nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư phi nông nghiệp. Cử tri cho rằng, quy định trên làm phát sinh thêm thủ tục hành chính, gây phiền hà cho doanh nghiệp; đồng thời đề nghị nghiên cứu trình Chính phủ xem xét, sửa đổi theo hướng lồng ghép nội dung này vào thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư nhằm giảm bớt thủ tục hành chính cho doanh nghiệp (cử tri tỉnh Quảng Bình)
a) Về vấn đề quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nêu tại mục a và mục b kiến nghị của cử tri
Nội dung cử tri nêu đã được quy định cụ thể trong Luật Quy hoạch. Theo quy định của Luật Quy hoạch thì hoạt động quy hoạch phải bảo đảm sự tuân thủ, tính liên tục, kế thừa, ổn định, thứ bậc trong hệ thống quy hoạch quốc gia. Quy hoạch đô thị phải phù hợp với quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh. Quy hoạch xây dựng là một trong những quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành được quy định cụ thể trong Luật Quy hoạch và là quy hoạch cụ thể hóa quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh.
Quy hoạch sử dụng đất quốc gia là quy hoạch cấp quốc gia, cụ thể hóa quy hoạch tổng thể quốc gia về phân bổ và khoanh vùng đất đai cho các ngành, lĩnh vực và các địa phương trên cơ sở tiềm năng đất đai.
Trường hợp quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng có mâu thuẫn với quy hoạch sử dụng đất quốc gia phải điều chỉnh và thực hiện theo quy hoạch sử dụng đất quốc gia.
b) Về vấn đề tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư phi nông nghiệp
Tại Điều 193 Luật Đất đai năm 2013 quy định:
“Tổ chức kinh tế hộ gia đình, cá nhân được nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Có văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án;
2. Mục đích sử dụng đối với diện tích đất nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
3. Đối với đất chuyên trồng lúa nước thì phải thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 134 của Luật này."
Do đó, quy định tại khoản 3 Điều 16 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 13 Điều 1 của Nghị định số 148/2020/NĐ-CP) là phù hợp với Luật Đất đai.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Đầu tư quy định: “Chấp thuận chủ trương đầu tư là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận về mục tiêu, địa điểm, quy mô, tiến độ, thời hạn thực hiện dự án; nhà đầu tư hoặc hình thức lựa chọn nhà đầu tư và các cơ chế, chính sách đặc biệt (nếu có) để thực hiện dự án đầu tư.” Như vậy, dự án đầu tư được chấp thuận chủ trương đầu tư phải có địa điểm cụ thể.
Các quy định nêu trên là phù hợp nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có căn cứ pháp lý đề thỏa thuận với người đang sử dụng đất để có địa điểm hợp pháp sản xuất kinh doanh; từ đó có căn cứ để đề xuất dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư.
Trên đây là ý kiến trả lời của Bộ Tài nguyên và Môi trường về vấn đề cử tri quan tâm gửi đến Quốc hội trước Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá XV có liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ./.
|
BỘ TRƯỞNG |
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây