Công văn 783/TM-XNK năm 2001 về các đề án đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng rau quả và thịt lợn thời kỳ 2001 - 2010 do Bộ Thương mại ban hành
Công văn 783/TM-XNK năm 2001 về các đề án đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng rau quả và thịt lợn thời kỳ 2001 - 2010 do Bộ Thương mại ban hành
Số hiệu: | 783/TM-XNK | Loại văn bản: | Công văn |
Nơi ban hành: | Bộ Thương mại | Người ký: | Vũ Khoan |
Ngày ban hành: | 30/03/2001 | Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật | Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
Số hiệu: | 783/TM-XNK |
Loại văn bản: | Công văn |
Nơi ban hành: | Bộ Thương mại |
Người ký: | Vũ Khoan |
Ngày ban hành: | 30/03/2001 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật |
Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
BỘ
THƯƠNG MẠI |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 0783/TM-XNK |
Hà Nội, ngày 30 tháng 3 năm 2001 |
VỀ CÁC ĐỀ ÁN ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG RAU QUẢ VÀ THỊT LỢN THỜI KỲ 2001-2010
Kính gửi: Thủ tướng Chính phủ
Để góp phần thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp (Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000), đồng thời triển khai thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ thời kỳ 2001-2010 (số 22/2000/CT-TTg ngày 27/10/2000), Bộ Thương mại đã tổ chức nghiên cứu, lấy ý kiến đóng góp của các Bộ, ngành, các địa phương và các doanh nghiệp có liên quan xây dựng hai Đề án đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng rau hoa quả và thịt lợn trong thời kỳ 2001-2010.
Đây là những nhóm mặt hàng có vị trí quan trọng và lợi thế ở nước ta; tuy trước mắt còn nhiều khó khăn, nhưng tiềm năng khá lớn, nếu có chính sách, biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm thì sẽ góp phần không nhỏ vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, tạo nguồn sản phẩm hàng hóa dồi dào đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trên thị trường nội địa và đẩy mạnh xuất khẩu, tạo thêm việc làm, nhất là đối với nông nhàn, cải thiện đời sống nông dân.
Trên cơ sở đánh giá tình hình những năm qua và triển vọng, Bộ Thương mại kiến nghị mục tiêu, phương hướng phát triển, vấn đề thị trường và các chính sách, biện pháp nhằm mở rộng sản xuất và xuất khẩu các nhóm hàng này trong thời kỳ 2001-2010 như sau:
Tình hình sản xuất và xuất khẩu các chủng loại hàng hóa này trong thời gian qua có những nét chủ yếu sau:
1. Rau hoa quả:
1.1. Theo Niên giám thống kê, giá trị sản lượng rau đậu và cây ăn quả năm 1995 tăng 16,3% so với năm 1990 và năm 1998 tăng 10,2% so với năm 1995, đặt 11.635 tỷ đồng. Tuy nhiên, tỷ trọng của chúng trong giá trị sản lượng trồng trọt cũng như tổng giá trị sản lượng nông nghiệp hầu như không thay đổi (chiếm khoảng trên dưới 15% giá trị sản lượng trồng trọt và khoảng trên dưới 12% tổng giá trị sản lượng nông nghiệp).
Diện tích trồng rau khoảng 400 ngàn ha, với năng suất khoảng 15 tấn/ha, đạt sản lượng gần 6 triệu tấn/năm, tiêu dùng trong nước bình quân 60 - 65 kg/người/năm (so với mức trung bình của thế giới: năng suất 35 - 40 tấn/ha và tiêu dùng 85 kg/người/năm; riêng Châu á khoảng 90 kg). Diện tích trồng cây ăn quả năm 1998 có 437,5 ngàn ha, với năng suất bình quân 9 ha/năm, sản lượng đạt gần 4 triệu tấn/năm, bình quân 55 - 60 kg/người/năm (so với thế giới: năng suất khoảng 30 - 35 tấn/ha; bình quân đầu người khoảng 70 kg/năm, trong đó ở Pháp 191 kg, Nhật 160 kg). Diện tích trồng hoa ước đạt 1.600 ha, sản lượng khoảng 300 triệu cành/năm.
Những con số trên cho thấy, nói chung năng suất rau quả của ta còn thấp; chất lượng kém, không đồng đều, giá thành sản phẩm cao, chưa có nhiều giống tốt, quy trình canh tác, chăm bón lạc hậu, sâu bệnh nhiều chưa bảo đảm yêu cầu rau quả sạch, tổ chức và kỹ thuật thu hái - bảo quản - vận chuyển chưa tốt gây tổn thất lớn sau thu hoạch, ảnh hưởng xấu đến chất lượng và tăng giá thành sản phẩm.
1.2. Xuất khẩu rau quả của ta từ năm 1990 trở về trước chủ yếu tập trung vào thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu, năm 1990 kim ngạch xuất khẩu rau quả tươi và chế biến đạt 52,3 triệu R/USD; trong đó có 20 ngàn tấn quả tươi, 24,2 ngàn tấn quả hộp, 9 ngàn tấn hạt tiêu. Khi đó có thuận lợi là được cung ứng nhiều loại vật tư quan trọng, có đội tầu chuyên dùng của Liên Xô bảo đảm vận tải biển đường dài với giá cước rất hạ do bao cấp.
Sau năm 1990, do thị trường xuất khẩu chủ yếu của ta biến động mạnh nên xuất khẩu rau quả giảm liên tục: năm 1991 chỉ còn 33,2 triệu R/USD, năm 1992: 32,3 triệu R/USD, năm 1993: 23,6 triệu R/USD và năm 1994 chỉ còn 20,8 triệu R/USD.
Từ năm 1995 trở lại đây do cải tiến sản xuất - kinh doanh, tìm kiếm chuyển đổi thị trường, xây dựng quan hệ bạn hàng mới, nên kim ngạch xuất khẩu tăng dần:
Kim ngạch (triệu USD) |
Trong đó |
||
Rau quả |
Hạt tiêu |
||
1995 |
94,9 |
56,1 |
38,8 |
1996 |
107,7 |
61,0 |
46,7 |
1997 |
130,9 |
68,2 |
62,7 |
1998 |
117,4 |
53,0 |
64,4 |
(giảm do bị ảnh hưởng khủng hoảng tài chính khu vực) |
|||
1999 |
242,1 |
104,9 |
137,2 |
2000 |
359,4 |
213,5 |
145,9 |
Như vậy, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu rau quả trong hai năm gần đây khá cao. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu mới chỉ chiếm khoảng 7-8% giá trị sản lượng hàng năm của nhóm hàng này.
Đến nay các loại rau hoa quả và hạt tiêu của Việt Nam đã được tiêu thụ ở 50 nước và lãnh thổ, trong đó riêng rau quả năm 2000 xuất khẩu sang một số thị trường cụ thể như sau: Trung Quốc 120,3 triệu USD, Đài Loan 20,8 triệu USD, Hàn Quốc 13,7 triệu USD, Nhật Bản 11,7 triệu USD, Nga 4,6 triệu USD, Hồng Kông 3,3 triệu USD, Mỹ 2,2 triệu USD, Hà Lan 2,2 triệu USD, Pháp 2,1 triệu USD, Lào 2,1 triệu USD, Italia 2 triệu USD, Đức gần 2 triệu USD...
2. Thịt lợn:
2.1. Ngành chăn nuôi trong những năm qua tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng đã có những bước phát triển nhất định. Đến nay chăn nuôi chiếm khoảng 20% giá trị sản lượng nông nghiệp. Sản lượng thịt trong giai đoạn 1990 - 1998 tăng khoảng 58%, bình quân mỗi năm tăng thêm 6%. Trong cơ cấu thịt ở nước ta, thịt lợn chiếm tới 80 - 85% (năm 1998 đạt 1,250 triệu tấn thịt lợn hơi/1,465 triệu tấn thịt hơi các loại, năm 2000 đạt gần 1,42 triệu tấn). Cơ cấu này khác nhiều so với cơ cấu chung của thế giới: sản lượng thịt của 3 nhóm chủ yếu: thịt bò, bê... (thường gọi chung là động vật có sừng), thịt lợn và thịt gia cầm thường không chênh lệch nhau nhiều (sản lượng thịt trên thế giới mấy năm gần đây khoảng 230 - 240 triệu tấn, trong đó thịt lợn khoảng 90 triệu tấn).
Sản lượng thịt bình quân theo đầu người ở Việt Nam khoảng 22 kg thịt hơi/năm, trong đó chủ yếu là thịt lợn. Đây là mức khá thấp so với nhiều nước trên thế giới (riêng thịt lợn chỉ bằng 20 - 30% mức tiêu dùng ở một số nước có mức tiêu thụ cao về thịt lợn hiện nay). Phần lớn (khoảng 70%) thịt lợn được tiêu thụ dưới dạng thịt tươi, giết mổ một phần được bảo quản đông lạnh và tiêu thụ chủ yếu ở các thành phố lớn hoặc xuất khẩu và một phần rất nhỏ được chế biến sâu dưới dạng thực phẩm, thức ăn nguội. Hệ thống các cơ sở giết mổ, chế biến, bảo quản thịt còn lạc hậu, chưa bảo đảm vệ sinh thực phẩm; chỉ có trên 20 cơ sở có thể tham gia giết mổ, chế biến thịt xuất khẩu với công suất khoảng 50.000 tấn/ca/năm, nhưng nói chung thiết bị của các cơ sở này đã cũ, lạc hậu về công nghệ.
Chất lượng thịt lợn của ta còn kém, chưa bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, tỷ lệ nạc thấp, trung bình chỉ khoảng 30 - 35%, còn ở những nước có ngành chăn nuôi phát triển tỷ lệ thịt nạc đạt tới 50 - 55%; tuy nhiên gần đây một số cơ sở chăn nuôi của ta đã có sản phẩm đạt tỷ lệ thịt nạc cao trên 50%. Giá thành còn cao do chưa có nhiều giống tốt năng suất cao; giá thức ăn gia súc khá đắt, trong khi giá trị thức ăn chiếm tới 68-72% giá thành sản phẩm.
Tóm lại, chất lượng thấp, giá thành cao là nguyên nhân chủ yếu gây khó khăn trong tiêu thụ thịt, nhất là trong xuất khẩu.
2.2. Xuất khẩu thịt lợn đã được thực hiện hơn chục năm nay, năm cao nhất (1991) đạt 25.000 tấn với kim ngạch trên 30 triệu R/USD (tương đương 60.000 - 65.000 tấn lợn hơi, vì qua chế biến thịt mảnh đông lạnh đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thường chỉ đạt 30 - 35% số lượng thịt hơi nguyên liệu). Trong điều kiện ngành chăn nuôi của ta chưa phát triển, mức tiêu dùng trong nước còn thấp, chất lượng sản phẩm chăn nuôi và chế biến còn kém, giá thành cao..., việc hàng năm xuất khẩu được một khối lượng thịt nhất định đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng thu nhập cho nông dân, đồng thời tích luỹ kinh nghiệm, tìm kiếm thị trường xuất khẩu.
Trong thời gian qua ta mới chỉ xuất khẩu được thịt lợn sữa, lợn choai sang thị trường Hồng Kông, gần đây có xuất lợn sữa sang Malaysia, Trung Quốc, Lào. Thịt lợn mảnh đông lạnh mới xuất được sang thị trường Liên Xô cũ và có năm xuất khẩu dang Bulgarie; sau đó chỉ còn thị trường Nga. Vài năm gần đây việc xuất khẩu thịt lợn sang Nga gặp nhiều khó khăn do giá xuất khẩu giảm mạnh, việc thanh toán chưa thông suốt, còn rủi ro... Ngoài ra, ta còn thăm dò khả năng xuất khẩu thịt sang Singapore, Nhật, Hàn Quốc, nhưng chưa có kết quả. Nói chung thực hiện xuất khẩu thịt khá hạn hẹp, không dễ mở và thâm nhập như đối với mặt hàng rau quả, vì các nước quản lý rất chặt chẽ việc nhập khẩu thịt.
II. Phương hướng, mục tiêu xuất khẩu rau hoa quả và thịt lợn, thời kỳ 2001-2010.
Để góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước trong thời kỳ 2001 - 2010, Bộ Thương mại đề nghị phương hướng, mục tiêu xuất khẩu nhóm hàng rau hoa quả và thịt lợn đến 2010 đại thể như sau:
1. Rau hoa quả:
1.1. Theo quyết định số 182/1990/QĐ-TTg ngày 03/9/1999 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển rau quả và hoa cây cảnh, thì mục tiêu xuất khẩu nhóm hàng này vào năm 2010 đạt mức kim ngạch 1 tỷ USD, tức là tăng bình quân khoảng 11%/năm, trong đó có kim ngạch mặt hàng hạt tiêu 100 triệu USD.
1.2. Theo “Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010” do Bộ Thương mại trình và được Chính phủ thông qua (Chỉ thị số 22/2000/TC-TTg ngày 27/10/2000 của Thủ tướng Chính phủ ), thì kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này vào năm 2010 dự kiếm đạt 1,85 tỷ USD, trong đó kim ngạch mặt hàng hạt tiêu là 250 triệu USD; tức là tăng bình quân 18%/ năm (cao hơn mức tối thiểu 15%/năm trong xuất khẩu chung của cả nước như đã ghi trong Chỉ thị số 22 nêu trên).
Có thể coi mục tiêu 1 tỷ USD là mức tối thiểu và 1,85 tỷ USD là mục tiêu phấn đấu đến năm 2010. Tuy nhiên, xét hiện trạng thì mục tiêu 1 tỷ USD cũng đã là khá cao. Do đó, để phấn đấu đạt những mục tiêu đề ra cần cải tiến mạnh mẽ cách làm với những chính sách - biện pháp phù hợp, với hy vọng sau 10 năm ta có thể đuổi kịp và vượt mức xuất khẩu trong lĩnh vực này của Thái Lan hiện nay.
Để cụ thể hóa một bước các mục tiêu nêu trên, phương hướng sản phẩm xuất khẩu của nhóm hàng này được dự kiến như sau:
|
Mục tiêu tối thiểu |
Mục tiêu phấn đấu |
- Rau quả tươi và ướp lạnh (10-15%) |
100-150 |
180-300 |
- Rau quả chế biến (50-60%) |
500-550 |
1000-1100 |
- Gai vị (cả hạt tiêu) (25-30%) |
250-300 |
350-400 |
- Hoa, cây cảnh (5-6%) |
60-80 |
100-120 |
|
1000 triệu USD |
1800 - 1900 triệu USD |
Rau quả xuất khẩu dưới dạng tươi và ướp lạnh đòi hỏi phải được trồng trọt, chăm bón, thu hái, bảo quản, vận chuyển... theo quy trình tiên tiến, bảo đảm chất lượng sản phẩm cao, đồng đều, hương vị và màu sắc hợp thị hiếu..., thì mới có thể xuất khẩu với khối lượng lớn và tới được thị trường xa (hiện nay ta mới xuất được trên 10% ở dạng này trong khi Thái Lan xuất khẩu trên 1 tỷ USD rau quả, cũng chỉ xuất dưới dạng tươi và ướp lạnh khoảng 20% đối với quả và trên 30% đối với rau, do có đầu tư tốt hơn nhiều so với ta).
Vì vậy, trong 10 năm tới, nhất là những năm đầu
ta cần tập trung đầu tư xuất khẩu rau quả chế biến là chủ yếu để có thể tận dụng
được nhiều loại nguyên liệu, chế biến dưới tất cả các dạng có thể xuất khẩu được
sang nhiều thị trường, kể cả thị trường xa như: các dạng sản phẩm muối, đóng hộp,
nước quả và nước quả cô đặc, puree’ (nghiền), sấy khô (nhất là sấy bằng thiết bị
hiện đại), mứt quả, rau đậu chế biến sẵn cung cấp thẳng cho các siêu thị của
các nước; đồng thời chuẩn bị điều kiện mở rộng xuất khẩu rau quả tươi vào cuối
thời kỳ này. Nói như vậy không có nghĩa là trong giai đoạn đầu không cố gắng xuất
khẩu dưới dạng tươi, tới các thị trường có
điều kiện.
Trong giai đoạn sau sẽ có điều kiện chuyển sang xuất tươi là chủ yếu.
2. Thịt lợn:
Xuất khẩu thịt lợn gặp nhiều khó khăn và thị trường xuất khẩu cũng hạn hẹp hơn. Tuy ta đã xuất khẩu thịt lợn hơn chục năm nay nhưng năm cao nhất cũng chỉ chiếm khoảng 6% sản lượng chăn nuôi và chủ yếu mới xuất được sang Nga và Hồng Kông.
Trong điều kiện ngành chăn nuôi ở nước ta chưa phát triển, sản lượng chăn nuôi bình quân theo đầu người còn thấp, việc chăn nuôi chủ yếu do các hộ nông dân thực hiện nên năng suất còn kém, giá thành cao, chất lượng không đồng đều, tỷ lệ nạc thấp, chưa bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm..., ta cần đưa ngành chăn nuôi nước ta thành một ngành sản xuất lớn, có nhiều sản lượng hàng hóa với chất lượng cao bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, trước hết và chủ yếu là bảo đảm một trong những nhu yếu phẩm hàng đầu của nhân dân với nhu cầu ngày càng tăng và yêu cầu ngày càng cao về chất lượng; đồng thời cần huy động một phần cho xuất khẩu, coi xuất khẩu là một động lực thúc đẩy chăn nuôi và chế biến thịt phát triển theo hướng hiện đại hóa.
Từ cách nhìn nhận trên, phương hướng, mục tiêu xuất khẩu thịt lợn trong 10 năm tới được đề nghị như sau:
- Trước mắc duy trì và củng cố quan hệ thị trường đã có để trở lại mức xuất khẩu đã đạt được trước đây (năm cao nhất khoảng 6% sản lượng thịt lợn hơi) và từng bước tăng thêm khối lượng xuất khẩu sang các thị trường này. Mặt khác cần nỗ lực mở thêm thị trường mới để có thể đưa khối lượng xuất khẩu thịt lợn vào cuối thời kỳ 2001 - 2010 lên 120 - 130 ngàn tấn sản phẩm, tương đương trên 200 ngàn tấn thịt hơi, tức là chiếm khoảng 8 - 10% sản lượng chăn nuôi với kim ngạch năm 2010 khoảng 140 - 150 triệu USD.
Đồng thời với việc xuất khẩu thịt lợn, cần nghiên cứu, thăm dò thị trường để xuất khẩu thêm thịt gia cầm, tạo thêm nhiều chủng loại sản phẩm thịt xuất khẩu vào những năm cuối thập kỷ này.
Chủng loại sản phẩm sẽ hình thành và được điều chỉnh phù hợp với khả năng sản xuất - chế biến, nhu cầu và dung lượng thị trường tiêu thụ nước ngoài. Tuy nhiên, căn cứ tình hình vừa qua và xu hướng phát triển, có thể sơ bộ dự báo như sau:
- Thịt lợn sữa: Lâu nay ta mới xuất sang Hồng Kông là chủ yếu và gần đây có xuất nhưng với khối lượng chưa đáng kể sang một vài thị trường khác, do loại lợn sữa giống thuần nội của ta được các thị trường này ưa chuộng. Khả năng mở rộng sản xuất - chế biến và xuất khẩu không khó, nhưng do dung lượng thị trường tiêu thụ có hạn, nêu chỉ có thể đưa khối lượng xuất khẩu lên khoảng 15-20 ngàn tấn sản phẩm/năm.
- Thịt lợn choai: (lợn giống ngoại lai tạo, trọng lượng đưa vào giết mổ khoảng 35-40 kg hơi/con, có nơi nuôi chỉ 45 ngày tuổi, giá xuất khẩu hiện nay lại cao hơn lợn sữa và lợn mảnh đông lạnh). Hiện nay mới có thị trường Hồng Kông tiêu thụ loại thịt này và hai năm gần đây ta đã xuất vài ngàn tấn/năm và có khả năng đưa lên 20 ngàn tấn sản phẩm/năm theo nhu cầu của họ.
- Còn lại là thịt mảnh đông lạnh xuất sang thị trường Nga và đang thăm dò, thử nghiệm mở thêm thực hiện mới. Đối với các loại thịt chế biến sâu dưới dạng thực phẩm (đồ hộp), thức ăn nguội và thịt gia cầm thì ta cần có thời gian chuẩn bị, thử nghiệm, tổ chức tốt việc tiêu thụ nội địa làm tiền đề cho xuất khẩu sau này.
Tóm lại, với phương hướng mục tiêu xuất khẩu rau hoa quả và thịt lợn như trên, ta phấn đấu đến năm 2010 đạt kim ngạch khoảng 2 tỷ USD trong lĩnh vực này. Nếu đạt được, thì đây là con số có nhiều ý nghĩa, trước hết là góp phần tăng trưởng xuất khẩu; đồng thời chuyển dịch kinh tế nông nghiệp; tạo việc làm và tăng thu nhập, cải thiện đời sống nông dân. Với 2 tỷ USD tuy chỉ chiếm khoảng 4% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa dự kiến vào năm 2010, nhưng tương đương với kim ngạch xuất khẩu 10 triệu tấn gạo lúc bình thường và khoảng 12 - 13 triệu tấn gạo theo thời giá hiện nay; và theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì chỉ riêng mục tiêu phát triển sản xuất và xuất khẩu 1 tỷ USD rau hoa quả đã có thể góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho 6,3 triệu người, bao gồm 4,5 triệu người trong sản xuất nông nghiệp và 1,8 triệu người trong chế biến và dịch vụ.
III. Định hướng thị trường xuất khẩu rau hoa quả và thịt lợn thời kỳ 2001-2010
Thị trường xuất khẩu là một trong những khâu quan trọng quyết định thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra. Định hướng chung cho 10 năm tới là:
1. Rau hoa quả:
Vừa qua, tuy mặt hàng rau hoa quả của ta, kể cả hạt tiêu đã đạt kim ngạch 360 USD (năm 2000) sang gần 50 nước và lãnh thổ, nhưng hơn 1/3 là xuất sang Trung Quốc (131,9 triệu USD), tiếp đến là Singapore (53,7 triệu USD chủ yếu là hạt tiêu trong đó có tạm nhập tái xuất), còn 8 thị trường khác có kim ngạch từ 7 triệu đến 21 triệu USD là: Đài Loan, Hà Lan, Hàn Quốc, Nhật, các Tiểu Vương quốc Arập thống nhất, Mỹ, Hồng Kông và Đức. Các thị trường khác kim ngạch còn nhỏ (từ 4 triệu USD trở xuống).
Căn cứ tình hình vừa qua, nhu cầu của thị trường, có thể dự tính khả năng xuất khẩu rau quả vào từng khu vực, thị trường như sau:
- Khu vực Châu á - Thái bình dương:
+ Trung Quốc: Hiện nay Trung Quốc xuất khẩu rau quả là chủ yếu, nhưng hàng năm cũng nhập khẩu nhiều loại, nhất là vào mùa đông và đối với một số tỉnh. Trong vài năm gần đây Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất rau quả của Việt Nam (năm 2000 đạt gần 132 triệu USD, chiếm trên 1/3 kim ngạch xuất khẩu rau quả của ta). Đây là thị trường rộng lớn liền kề với ta nên cần ra sức tranh thủ khai thác, nhất là các nhu cầu trái vụ, cả chính ngạch và tiểu ngạch. Trong thời gian trước mắt, dù chưa có đầu tư lớn vẫn có thể xuất được nhiều loại sản phẩm rau quả, nhất là rau quả tươi và gần đây là hoa tươi. Với đặc điểm là thị trường gần, có dung lượng lớn, kinh tế tiếp tục phát triển mạnh và nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng, nếu ta tổ chức tốt việc xuất khẩu thì có thể đưa kim ngạch rau quả xuất sang Trung Quốc lên vài trăm triệu USD/năm vào những năm cuối thời kỳ 2001-2010.
+ Nhật Bản: Tuy hiện nay ta mới xuất rau hoa quả sang Nhật khoảng 15 triệu USD/năm, nhưng đây là thị trường có nhu cầu nhập khẩu rau hoa quả với khối lượng lớn. Thái Lan và Trung Quốc xuất khẩu nhiều rau quả sang nước này, riêng Thái Lan xuất rau quả tươi và chế biến sang Nhật có năm đạt kim ngạch gần 200 triệu USD. Mặc dầu đây là thị trường thuộc loại khó tính, nhưng là thị trường gần; nếu các doanh nghiệp của ta quan tâm tìm hiểu kỹ nhu cầu thị trường, xây dựng quan hệ làm ăn lớn và lâu dài thì có khả năng tăng nhanh kim ngạch để đến 2010 ít nhất cũng đạt mức Thái Lan hiện nay, tức là khoảng 200 triệu USD/năm.
+ Thị trường Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông: Các thị trường này tuy dung lượng không lớn, nhưng do kinh tế phát triển, đời sống dân cư tương đối cao, nêu có nhu cầu thường xuyên nhập khẩu nhiều loại rau quả và gia vị, nhất là những loại trái vụ. Năm 2000 ta đã xuất sang các thị trường này gần 50 triệu USD. Nếu tổ chức tốt việc xuất khẩu, thì khả năng đưa kim ngạch lên 150 - 200 triệu USD vào năm 2010 là có thể hy vọng.
+ Thị trường các nước ASEAN: Các thị trường này, kể cả Thái Lan (trừ Mianma) hàng năm ít nhiều đều có nhập khẩu rua quả và gia vị của Việt Nam. Năm 2000, kim ngạch đạt gần 65 triệu USD (trong đó Singapore thường nhập khẩu khối lượng lớn hạt tiêu để chuyển khẩu, tái xuất). Quan hệ mua - bán trong nội bộ giữa các nước ASEAN ngày càng được tự do hoá sẽ thúc đẩy cả 2 chiều xuất - nhập. Ta cần tranh thủ khai thác lợi thế của mình để đẩy mạnh xuất khẩu các chủng loại hàng hóa này sang các thị trường khu vực; cố gắng đưa kim ngạch lên tới mức 150 - 200 triệu USD/năm vào những năm cuối thời kỳ.
+ Thị trường úc: Mặc dù úc là nước có nền nông nghiệp phát triển mạnh, đặc biệt trong công nghệ giống và chế biến rau quả, nhưng vẫn có nhu cầu nhập khẩu nhiều loại rau quả. Tuy mức thuế nhập khẩu ở úc thấp, nhưng đòi hỏi về vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch rau quả rất được coi trọng.
Hàng năm ta có xuất khẩu rau quả sang thị trường này, nhưng kim ngạch còn nhỏ (năm 2000 đạt 2,1 triệu USD). Nếu tính thêm nhu cầu và thị hiếu của cộng đồng người Việt đông đảo ở đây và chú ý đặc điểm tiêu dùng của thị trường, thì trong những năm tới có khả năng tăng nhanh kim ngạch, nhất là rau quả tươi.
Một hướng quan trọng nữa là hợp tác với họ để đi vào các thị trường đòi hỏi chất lượng cao.
- Khu vực Âu - Mỹ:
+ Thị trường Tây, Bắc Âu: Đây là thị trường rộng lớn, có nhu cầu nhập khẩu nhiều loại rau quả nhiệt đới. Vừa qua ta đã xuất khẩu được khối lượng rau quả đáng kể sang 16 nước thuộc thị trường này, năm 2000 đạt gần 40 triệu USD. Trong 10 năm tới ta cần phấn đấu đưa dần kim ngạch xuất khẩu lên khoảng 150 - 200 triệu USD/năm.
+ Thị trường các nước SNG và Đông Âu: Trước năm 1990, rau quả của ta chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường này. Những năm gần đây, tuy có khôi phục lại được một phần, nhưng kim ngạch còn nhỏ. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu sang 5 nước Nga, Balan, Ucraina, Cộng Hoà Séc và Hungaric mới chỉ đạt 10,2 triệu USD. Tuy nhiên đây là thị trường quen biết, dù còn có một số khó khăn, nhưng gần đây, nhất là đối với thị trường Nga, có xu hướng phát triển tốt. Do đó ta cần chủ động khai thác xu hướng mới, cố gắng đưa kim ngạch xuất khẩu lên khoảng 100 - 150 triệu USD vào cuối thời kỳ này.
+ Thị trường Bắc Mỹ và Mỹ lan tinh:
Các thị trường thuộc khu vực này tuy có nhu cầu nhập khẩu lớn về rau quả, đặc biệt là Mỹ năm 1998 nhập tới 8,3 tỷ USD rau quả, nhưng còn quá mới mẻ đối với ta. Năm 1999 ta mới xuất khẩu sang Mỹ, Canada, Mexico, Brazil, chỉ khoảng 13,5 triệu USD (trong đó Mỹ 12,2 triệu USD).
Một khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được phê chuẩn, đồng thời có biện pháp tốt tiếp cận thị trường, thì có khả năng đẩy mạnh xuất khẩu rau quả vào thị trường này (vì thuế suất nhập khẩu ra quả vào Mỹ trong điều kiện chưa áp dụng chế độ ưu đãi tối huệ quốc có loại tới 50%).
Nếu tình hình thuận lợi, ta có thể đưa dần kim ngạch lên tới mức trên 100 triệu USD vào năm 2010. Hiện nay, Thái Lan, Trung Quốc, Philippin mỗi nước đã đã xuất khẩu vào Mỹ khoảng 130 - 150 triệu USD/năm về rau quả chế biến.
- Khu vực Trung Đông và Châu Phi.
Vừa qua ta mới xuất khẩu được rau quả (chủ yếu là hạt tiêu) sang một số nước thuộc khu vực này (Các Tiểu vương quốc Arập thống nhất, Iran, Israel, Thổ nhĩ kỳ và Nam Phi); năm 1999 đạt kim ngạch 7 triệu USD và năm 2000 đạt hơn 11 triệu USD.
Trong những năm tới cần quan tâm khai thác khả năng xuất khẩu nông sản và rau quả sang khu vực này và đưa kim ngạch lên khoảng 40 - 50 triệu USD/năm.
Tóm lại, thị trường xuất khẩu rau quả trong 10 năm tới dự tính hướng theo cơ cấu sau:
Thị trường Châu á - Thái Bình dương khoảng 50 - 55%,
Thị trường Châu Âu: 20 - 25%,
Thị trường Châu Mỹ: 15 - 20%,
Thị trường Trung Đông và Châu Phi khoảng 5%.
2. Thịt lợn:
Như trên đã nêu, thị trường xuất khẩu thịt, trong đó có thịt lợn, hạn hẹp hơn so với nhiều loại hàng khác. Gần đây tình hình dịch bệnh gia súc có phần nghiêm trọng dẫn đến tình trạng các nước đều tăng cường phòng ngừa, làm cho việc xuất khẩu càng khó hơn. Tuy nhiên, ta vẫn có thể phát triển xuất khẩu ở một mức độ nhất định theo hướng sau:
- Trước hết, cần tổ chức tốt, bảo đảm hiệu quả xuất khẩu lợn sữa sang thị trường Hồng Kông và một số thị trường khác (Trung Quốc, Malaysia, Lào...), đồng thời tăng khối lượng lợn choai xuất khẩu.
- Cố gắng gia tăng xuất khẩu thịt lợn sang thị trường Nga với sự tài trợ của Nhà nước trong một thời gian, cố gắng khắc phục một số khó khăn trước mắt (giá cả, thanh toán). Nếu thuận lợi, có thể đưa khối lượng xuất khẩu lên 60 - 80 ngàn tấn sản phẩm/năm vào cuối thời kỳ 2001-2010.
- Nhật Bản là nước nhập khẩu thịt lợn nhiều nhất thế giới hiện nay (khoảng 800-900 ngàn tấn/năm). Hàn Quốc và Singapore hàng năm cũng có nhập khẩu thịt lợn (trên dưới 100 ngàn tấn/năm). Vì vậy, cần tiếp cận và có các biện pháp để mở thêm một số thị trường mới trong những năm tới.
IV. Kiến nghị chính sách và biện pháp.
Để đẩy mạnh xuất khẩu rau hoa quả và thịt lợn, cần có chính sách, biện pháp giải quyết nhiều vấn đề, nhất là chất lượng và giá thành sản phẩm; hệ thống chính sách, biện pháp cần bao quát toàn bộ quá trình sản xuất - chế biến, lưu thông và xuất khẩu.
Với nhận thức như vật, Bộ Thương mại xin kiến nghị như sau:
1. Xây dựng các vùng chăn nuôi, trồng rau và cây ăn quả tập trung phục vụ xuất khẩu.
Cho tới nay việc nuôi, trồng chủ yếu vẫn do các hộ nông dân thực hiện phân tán nên việc mua gom phục vụ xuất khẩu rất phức tạp, chất lượng sản phẩm không bảo đảm, không đồng đều, nguồn nguyên liệu cho chế biến không ổn định...
Vì vậy, trong những năm tới cần cố gắng xây dựng các vùng chuyên doanh tập trung phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên, để bảo đảm tiêu thụ, trước mắt cần tập trung xây dựng cho được một số vùng thí điểm gắn với nguồn tiêu thụ rồi mở rộng dần theo với đà mở thêm thị trường, tránh mở tràn lan, gặp khó khăn trong việc tiêu thụ. Trên thực tế hiện nay ta đã có một số vùng sản xuất tập trung như các vùng trồng dứa ở Đồng Giao, Kiên Giang..., vùng vải Lục Ngạn, vùng rau Đà Lạt...
Các vùng tập trung, chuyên canh phải là các vùng được quy hoạch, trong đó các nhà kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế được sử dụng hoặc thuê đất để tổ chức chăn nuôi, trồng trọt theo quy trình sản xuất lớn, hiện đại bảo đảm sản xuất có năng suất cao, chất lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường về thịt sạch, rau quả sạch. Tuỳ theo mức độ cần thiết của từng vùng có thể đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến, trung tâm giống, cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi, cơ sở thú y, cơ sở hạ tầng phù hợp (đường giao thông, đường tải điện, công trình xử lý môi trường, kho chuyên dùng tạm trữ sản phẩm sau thu hoạch...).
Cố gắng thu hút một số nhà đầu tư nước ngoài, dành cho họ những ưu đãi tối đa có thể được để khuyến khích họ sản xuất và xuất khẩu.
Các vùng tập trung chuyên doanh này cùng với hệ thống cơ sở sản xuất vệ tinh trong khu vực lân cận (các hộ nông dân hoặc các trang trại được hình thành với sự hướng dẫn và giúp đỡ của các vùng tập trung) sẽ là nơi cung ứng chủ yếu hàng xuất khẩu hoặc nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu; đồng thời đáp ứng một phần nhu cầu của thị trường nội địa, nhất là nhu cầu của các thành phố và các khu công nghiệp.
Không có các vùng chăn nuôi, trồng trọt tập trung, chuyên doanh thì không thể có xuất khẩu rau hoa quả và thịt với khối lượng lớn và ổn định.
2. Xây dựng hệ thống cơ sở chế biến - bảo quản - vận chuyển rau quả và thịt lợn xuất khẩu.
Hiện nay toàn bộ thịt lợn và phần lớn rau quả của ta được xuất khẩu dưới nhiều dạng sản phẩm chế biến (riêng thịt lợn, trước đây có lúc ta đã xuất lợn sống sang Hồng Kông. Gần đây Singapore vẫn còn nhập khẩu lợn sống để tự giết mổ). Ta mới xuất được thịt đông lạnh, chưa xuất được sản phẩm thịt chế biến sâu dưới dạng thực phẩm, thức ăn nguội.
Nói chung ngành công nghiệp thực phẩm đã hình thành ở nước ta, trong đó có chế biến rau quả và thịt. Tuy nhiên, công nghệ chế biến còn lạc hậu, thiết bị quá cũ ảnh hưởng xấu đến chất lượng và giá thành sản phẩm. Nếu xuất khẩu ới mức như hiện nay thì có thể khai thác các cơ sở chế biến và kho bảo quản chuyên dùng hiện có. Để xuất khẩu với khối lượng lớn hơn và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng thì cần sớm quy hoạch và hỗ trợ đầu tư nhằm cải thiện, nâng cấp các cơ sở này.
Trước mắt, cần rà soát hệ thống cơ sở hiện có, kết hợp với quy hoạch xây dựng các vùng tập trung chăn nuôi, trồng rau, cay ăn quả phục vụ xuất khẩu theo yêu cầu nêu trên, từ đó đầu tư có chọn lọc để nâng cấp một số cơ sở đang hoạt động; đồng thời từng bước xây dựng các cơ sở mới với công nghệ và thiết bị hiện đại (hiện nay và nhất là trong tương lai không xa nếu không ứng dụng công nghệ hiện đại sẽ khó xuất khẩu nhiều chủng loại sản phẩm chế biến). Mặt khác, hệ thống này không chỉ phục vụ xuất khẩu, mà còn đáp ứng một phần nhu cầu thị trường nội địa với chất lượng sản phẩm ngày càng cao.
Các vùng tập trung nuôi, trồng phục vụ xuất khẩu và các cơ sở vệ tinh của các vùng này sẽ là vùng nguyên liệu chủ yếu bảo đảm cho hệ thống chế biến hoạt động ổn định và có hiệu quả. Tuy nhiên, đối với các vùng rau, cây ăn quả cần nghiên cứu kỹ đặc điểm thời vụ của cây trồng nhằm khai thác có hiệu quả công suất máy, thiết bị, dây chuyền chế biến.
3. Chính sách hỗ trợ đầu tư chăn nuôi, trồng trọt, đầu tư xây dựng cơ sở chế biến và các công trình có liên quan.
Đầu tư cho sản xuất - kinh doanh trong lĩnh vực này thường đòi hỏi số vốn không nhỏ, trong sản xuất - kinh doanh có nhiều rủi ro (thiên tai, dịch bệnh, sâu bệnh...), lợi nhuận thấp, nên Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích và ưu đãi thoả đáng cho các chủ đầu tư. Trước mắt, cần vận dụng tốt các quy định đã có theo “Luật khuyến khích đầu tư trong nước” (sửa đổi năm 1998) và Nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật này.
Tuy nhiên, cần sửa đổi, bổ sung một số điểm cho phù hợp. Ví dụ, theo quy định hiện này, trong lĩnh vực trồng rau hoa quả, Nhà nước mới chỉ dành ưu đãi cho các dự án đầu tư trồng cây ăn quả trên đất khai hoang, phục hóa đồi núi trọc; việc trồng cây ăn quả ở các vùng đất khác và trồng rau, trồng hoa chưa được hưởng ưu đãi. Đề nghị cho sửa đổi điểm này, chí ít là áp dụng cho tất cả các vùng được quy hoạch trồng rau, hoa và cây ăn quả phục vụ xuất khẩu (riêng các dự án chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung có quy mô công nghiệp và các dự án chế biến nông sản đã được hưởng chính sách ưu đãi theo Nghị định 51).
Điều quan trọng là làm sao có nguồn vốn để các chủ đầu tư có thể vay trung hạn hoặc dài hạn và được hưởng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư từ Quỹ tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước (theo Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 26/6/1999 của Chính phủ). Theo quy định tại Nghị định này, dù các dự án đầu tư sản xuất, chế biến rau quả và thịt thuộc diện “sản xuất hàng xuất khẩu”, nhưng chỉ khi nào đầu tư ở các vùng khó khăn thì mới là đối tượng được vay vốn từ Quỹ này. Đề nghị sửa đổi quy định này để khuyến khích ưu đãi đầu tư vào lĩnh vực khó khăn này.
Ngoài ra, chính sách hỗ trợ, khuyến khích và ưu đãi đầu tư cần được áp dụng cho các dự án đầu tư liên quan khác như: sản xuất bao bì, kho và phương tiện vận tải chuyên dùng phục vụ quá trình sản xuất, chế biến - xuất khẩu rau quả và thịt lợn, trung tâm giống thú y...
4. Chính sách về cây, con giống.
Cây, con giống là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng sản phẩm, đồng thời giống tốt còn cho năng suất cao tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm. Khách hàng nước ngoài thường tìm hiểu sâu về giống, thậm chí yêu cầu sản xuất bằng giống do họ chỉ định.
Nhà nước cần quản lý chặt chẽ nhập khẩu hạt giống, cây con giống, tránh nhập loại giống ảnh hưởng xấu đến sản xuất trong nước. Các cơ quan, viện nghiên cứu liên quan cần tổ chức tốt việc nghiên cứu, thử nghiệm lai tạo giống mới có năng suất cao, tổ chức cung ứng đủ giống tốt, trước hết là cho các nhà sản xuất trong vùng tập trung phục vụ xuất khẩu. Nếu doanh nghiệp được phép thử nghiệm, lai tạo giống thì cũng được Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí liên quan. Trong thời gian đầu nếu giá cây con giống cao, thì Nhà nước hỗ trợ một phần giá cho người trồng trọt, chăn nuôi, trước hết là đối với các vùng sản xuất tập trung xuất khẩu. Mức hỗ trợ các doanh nghiệp đề nghị từ 20% trở lên, tuỳ theo từng loại giống nhằm giúp họ khắc phục khó khăn trong giai đoạn đầu.
Cùng với việc cung ứng giống mới, có quy định hướng dẫn quy trình trồng trọt, chăn nuôi: cách chăm bón, sử dụng các loại phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc, thuốc thú y, phòng trừ dịch bệnh... nhằm giúp người sản xuất đạt năng suất cao, bảo đảm sản phẩm có chất lượng cao, sạch.
5. Về các chính sách - biện pháp bảo đảm chất lượng sản phẩm theo yêu cầu “Rau quả sạch, thịt sạch”.
Trong nhập khẩu các loại hàng rau quả và thịt lợn, khách hàng nước ngoài đặc biệt quan tâm đến chất lượng sản phẩm; ngoài các quy cách, tiêu chuẩn chất lượng chung, họ còn đặc biệt chú ý đến vấn đề vệ sinh an toàn thành phố.
Chất lượng phụ thuộc vào toàn bộ quá trình từ nuôi, trồng đến chế biến - bảo quản - vận chuyển. Vì vậy, trước hết cần quy định rõ tiêu chuẩn rau quả sạch, thịt sạch để tuyên truyền hướng dẫn người sản xuất - chế biến, kinh doanh thực hiện (hướng dẫn cách nuôi trồng, cách sử dụng thức ăn gia súc; sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc thú ý... phù hợp với từng loại giống cây, con); đồng thời triển khai tốt các biện pháp sau:
- Tăng cường công tác thú ý phòng trừ dịch bệnh trong chăn nuôi, chế biến thịt: bảo đảm loại trừ dịch bệnh nguy hiểm, trước hết là ở các vùng chăn nuôi tập trung phục vụ xuất khẩu. Nhà nước hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần tiền vacxin phòng dịch bệnh và một phần các chi phí khác về dịch vụ thú y.
- Tổ chức phòng trừ sâu bệnh đối với rau, quả. Trong trường hợp cần thiết Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí.
- Công tác kiểm dịch động thực vật cần được tổ chức tốt, kiểm dịch và đối với những nước nhập khẩu nhiều sản phẩm rau quả, thịt lợn của Việt Nam, cần đàm phán, ký kết các thoả thuận về hợp tác thú ý, kiểm dịch động thực vật, thừa nhận các kết quả giám định chất lượng sản phẩm, kết quả kiểm dịch động thực vật của nhau, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp.
6. Chính sách về thức ăn gia súc
Thức ăn gia súc ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng và giá thành sản phẩm thịt. Trong chăn nuôi lợn ở Việt Nam, thức ăn thức ăn quyết định giá thành (chiếm tới 68-72% giá thành). Giá nguyên liệu cao làm cho giá thành thịt chế biến rất cao (chi phí chăn nuôi lợn ở Việt Nam cao gần gấp rưỡi mức chi phí bình quân ở các nước).
Vừa qua sản xuất thức ăn chăn nuôi đã có bước phát triển mạnh. Nhà nước cần quản lý chặt chẽ để bảo đảm chất lượng thức ăn gia súc đúng tiêu chuẩn, đồng thời, có biện pháp hỗ trợ tạo nguồn nguyên liệu với giá hạ. Đối với một số nguyên liệu còn thiếu đề nghị miễn giảm thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng hoặc hoàn thuế này đối với cơ sở sản xuất phục vụ chăn nuôi xuất khẩu.
7. Tổ chức tốt mối quan hệ giữa chăn nuôi - trồng trọt, thu gom, tiêu thụ (chế biến, tiêu thụ nội địa và xuất khẩu); giải quyết các vấn đề sau thu hoạch.
Như trên đã nói, hiện nay chăn nuôi lợn cũng như trồng rau, cây ăn quả ở Việt Nam chủ yếu là do các hộ gia đình nông dân thực hiện, còn rất phân tán, manh mún... làm trầm trọng thêm những yếu kém vốn có về chất lượng, giá thành. Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổn thất sau thu hoạch về rau quả ở nước ta hiện nay rất lớn: khoảng 20-25%.
Trong khâu mua gom sản phẩm từ những người sản xuất nhỏ, lẻ này, nhất là đối với rau quả, hiện nay chủ yếu do tư nhân (thương lái) thao túng, rất lộn xộn. Thường trong quan hệ mua bán - bán không có cam kết, hợp đồng chặt chẽ nên người sản xuất chịu nhiều thua thiệt, bị ép cấp, ép giá, và khi tình hình bất lợi thì các thương nhân này thoái thác trách nhiệm mua hàng, gây hậu quả nặng nề cho nông dân. Còn các doanh nghiệp nhà nước xuất khẩu hoặc chế biến xuất khẩu thường không thể tự mình trực tiếp mua hàng của người sản xuất vì họ quá đông và để có đủ số lượng hàng hoặc nguyên liệu thường buộc phải mua lại qua tư thương với giá đắt. Do đó cần tổ chức tốt quan hệ mua bán theo hướng vừa bảo vệ lợi ích chính đáng của nông dân, vừa giảm thiểu được giá thành hàng xuất khẩu, nhất là trong khi chưa có các vùng sản xuất tập trung xuất khẩu.
Việc tổ chức bảo quản và vận chuyển sản phẩm sau thu hoạch bằng phương tiện chuyên dùng cũng còn nhiều yếu kém, vừa không duy trì được chất lượng, vừa gây hao hụt. Do đó cũng cần có biện pháp chính sách tổ chức các phương tiện bảo quản và vận tải chuyên dùng.
Cần từng bước tổ chức hệ thống các trung tâm bán buôn rau quả (hoặc chợ bán buôn) gần các thành phố lớn hoặc khu vực đầu mối giao thông quan trọng, có hệ thống kho bảo quản và phương tiện vận tải chuyên dùng để thu gom được sản phẩm vừa cung ứng cho hệ thống bán lẻ trên thị trường nội địa, vừa cung ứng cho xuất khẩu hoặc chế biến xuất khẩu.
Tổ chức tốt thị trường trong nước đối với mặt hàng rau quả và các sản phẩm thịt, với yêu cầu bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm theo hướng “Rau quả sạch thịt sạch” sẽ tạo tiền đề quan trọng đẩy mạnh xuất khẩu.
8. Xúc tiến thương mại mở rộng thị trường xuất khẩu
Bộ Thương mại đã cố gắng tập hợp nhiều thông tin về thị trường nước ngoài, giới thiệu khái quát đặc điểm của một số thị trường chủ yếu trong việc nhập khẩu các loại hàng hóa này, cách tiếp cận thị trường của một số mô hình quan hệ thị trường đem lại kết quả tốt.... nhằm giúp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này tìm hiểu, vận dụng.
Cục xúc tiến thương mại (thuộc Bộ Thương mại) và hệ thống Cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài đang hướng hoạt động của mình vào việc thu thập thông tin về thị trường, nhu cầu, thị hiếu của khách hàng và người tiêu dùng, nhất là đối với các thị trường trọng điểm nhằm cung cấp thường xuyên và kịp thời cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mặt hàng rau quả và thịt lợn; tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về các nhà kinh doanh trong và ngoài nước trao đổi tìm hiểu yêu cầu của nhau, lựa chọn thiết lập các mô hình quan hệ mua - bán phù hợp...
Ngoài việc tổ chức hội chợ, triển lãm, cần tổ chức một số trung tâm bán buôn rau quả ở trong nước và trung tâm giới thiệu sản phẩm và giao dịch nhằm tìm kiếm khách hàng tại một số đầu mối quan trọng ở cả trong nước lẫn nước ngoài, giúp các doanh nghiệp thăm dò thị trường, nắm bắt được thị hiếu ở nước sở tại và khu vực lân cận.
Nói chung các sản phẩm rau quả và thịt lợn không dễ bán và nhất là bán với khối lượng lớn. Do đó các cơ quan nhà nước khi đàm phán về nhập khẩu các công trình lớn, hoặc về các khoản tín dụng, trả nợ nước ngoài cần cố gắng thuyết phục đối tác nhận một phần bằng các sản phẩm này. Đây là một cách hỗ trợ mở thị trường xuất khẩu, gắn kết nhập khẩu với đẩy mạnh xuất khẩu.
Hiện nay ta đã xuất khẩu các sản phẩm rau quả sang gần 50 thị trường, và các sản phẩm thịt lợn sang vài thị trường, nên cần quan tâm duy trì và phát triển quan hệ đã có, đặc biệt là các thị trường quan trọng, có dung lượng và triển vọng lớn; đồng thời tiếp tục tìm kiếm mở các thị trường mới.
Để khai thác các công việc nêu trên nhà nước cần hỗ trợ kinh phí hàng năm. Nên sớm thành lập Quỹ xúc tiến thương mại để chủ động triển khai có hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
9. Thu hút thêm đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất, chế biến, xuất khẩu rau quả và thịt lợn.
Vừa qua ta đã cho một số công ty nước ngoài đầu tư liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực này. Một số đơn vị đã thu được kết quả tốt.
Cần thu hút thêm một số nhà đầu tư nước ngoài vì không những họ có vốn, có kinh nghiệm sản xuất chế biến theo nhu cầu của thị trường và đặc biệt quan trọng là họ có mối, có quan hệ bạn hàng và kinh nghiệm xuất khẩu.
Nếu đối tác từ các thị trường có dung lượng và có nhu cầu nhập khẩu lớn về các sản phẩm này như: Trung Quốc, Nhật, Mỹ, Nga đầu tư sản xuất chế biến và xuất khẩu sản phẩm về chính nước họ thì càng thuận lợi cho việc xuất khẩu.
10. Một số biện pháp khác.
Ngoài các chính sách biện pháp như đã nêu ở phần trên, đề nghị các Bộ, ngành quan tâm giải quyết các vấn đề sau:
- Hỗ trợ về vận tải hàng không và vận tải biển đường dài để các doanh nghiệp có thể mở rộng xuất khẩu các sản phẩm tươi hoặc đông lạnh. Hiện nay vừa không có đủ phương tiện, giá cước lại rất cao nên các doanh nghiệp không thể mở rộng được xuất khẩu. Các doanh nghiệp kiến nghị nhà nước từng bước xây dựng đội tàu vận tải biển chuyên dùng phục vụ cho mục tiêu này, có sự hỗ trợ về giá cước.
- Các sản phẩm rau quả và thịt nói chung, nhất là hàng tươi sống, hàng đông lạnh thường dễ bị hư hỏng, tổn thất nên phải tạo mọi sự thông thoáng trong lưu thông, vì vậy cần kiên quyết xóa bỏ các loại lệ phí, thủ tục không cần thiết, gây phiền hà cho các doanh nghiệp, gây chậm trễ trong lưu thông ảnh hưởng xấu đến chất lượng hàng hóa, thậm chí hư hỏng hàng hóa và làm tăng giá thành sản phẩm xuất khẩu.
Trên đây là nội dung chủ yếu của hai đề án Bộ Thương mại trình Thủ tướng Chính phủ. Trong quá trình xây dựng đề án Bộ Thương mại đã tổ chức khảo sát tình hình ở một số địa phương và trong tháng 2/2001 đã tổ chức hai cuộc hội thảo có đại diện các Bộ ngành Trung ương, các cơ quan chuyên môn và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh rau hoa quả và thịt lợn của 15 tỉnh, thành phố trọng điểm phía Bắc và 15 tỉnh, thành phố trọng điểm phía Nam để đóng góp ý kiến cho Dự thảo Đề án. Nói chung các đại biểu dự hội thảo đều rất hoan nghênh việc xây dựng các đề án này đồng thời đã góp nhiều ý kiến nhằm bổ sung và cụ thể hóa các chính sách - biện pháp nêu ra trong dự thảo. Bộ Thương mại cũng đã đề nghị các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công nghiệp, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước góp ý kiến chính thức bằng văn bản.
Bộ Thương mại xin kính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI |
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây