Để bảo đảm toàn diện, đồng bộ và chặt chẽ trong quản lý ngân sách nhà nước (NSNN), Luật Ngân sách nhà nước 2015 đã được ban hành nhằm khắc phục những bất cập, tồn tại của Luật NSNN 2002 và đáp ứng các yêu cầu mới đặt ra trong quá trình tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính, hội nhập kinh tế quốc tế.
Bội chi ngân sách địa phương là một phần trong bội chi NSNN
Theo quy định tại Luật Ngân sách nhà nước 2002 thì bội chi NSNN được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi NSNN phải bảo đảm nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Tại Điều 4 Nghị định 60/2003/NĐ-CP (văn bản đã hết hiệu lực thi hành) định nghĩa bội chi NSNN là bội chi ngân sách trung ương được xác định bằng chênh lệch thiếu giữa tổng số chi ngân sách trung ương và tổng số thu ngân sách trung ương của năm ngân sách. Ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 của Luật Ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, Luật Ngân sách nhà nước 2015 quy định về bội chi NSNN bao gồm bội chi ngân sách trung ương và bội chi ngân sách địa phương cấp tỉnh. Trong đó, việc xác định bội chi ngân sách trung ương và bội chi ngân sách địa phương như sau:
- Bội chi ngân sách trung ương được xác định bằng chênh lệch lớn hơn giữa tổng chi ngân sách trung ương không bao gồm chi trả nợ gốc và tổng thu ngân sách trung ương.
- Bội chi ngân sách địa phương cấp tỉnh là tổng hợp bội chi ngân sách cấp tỉnh của từng địa phương, được xác định bằng chênh lệch lớn hơn giữa tổng chi ngân sách cấp tỉnh không bao gồm chi trả nợ gốc và tổng thu ngân sách cấp tỉnh của từng địa phương.
Như vậy, lần đầu tiên Luật NSNN quy định bội chi ngân sách địa phương là một phần trong bội chi NSNN. Theo Luật Ngân sách nhà nước 2015 thì quy định chỉ ngân sách địa phương cấp tỉnh mới được phép bội chi. Bội chi ngân sách địa phương chỉ được sử dụng chỉ được sử dụng để đầu tư các dự án thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Quản lý chặt quỹ dự trữ tài chính
Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ lập quỹ dự trữ tài chính từ các nguồn tăng thu, kết dư ngân sách, bố trí dự toán chi ngân sách hàng năm và các nguồn tài chính khác theo quy định của pháp luật.
Số dư của quỹ dự trữ tài chính ở mỗi cấp không vượt quá 25% dự toán chi ngân sách hàng năm của cấp đó.
Quỹ dự trữ tài chính được sử dụng trong các trường hợp:
- Cho ngân sách tạm ứng để đáp ứng các nhu cầu chi theo dự toán chi ngân sách khi nguồn thu chưa tập trung kịp và phải hoàn trả ngay trong năm ngân sách;
- Trường hợp thu NSNN hoặc vay để bù đắp bội chi không đạt mức dự toán được Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định và thực hiện các nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh trên diện rộng, với mức độ nghiêm trọng, nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh và nhiệm vụ cấp bách khác phát sinh ngoài dự toán mà sau khi sắp xết lại ngân sách, sử dụng hết dự phòng ngân sách mà vẫn chưa đủ nguồn, được sử dụng quỹ dự trữ tài chính để đáp ứng các nhu cầu chi nhưng mức sử dụng trong năm tối đa không quá 70% số dư đầu năm của quỹ.
Thu hẹp dự phòng ngân sách chi cho ngân sách trung ương và ngân sách địa phương
Luật Ngân sách nhà nước 2002 quy định dự toán ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương được bố trí khoản dự phòng từ 2% đến 5% tổng số chi của ngân sách mỗi cấp để chi phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng, an ninh, nhiệm vụ cấp bách khác phát sinh ngoài dự toán trong năm ngân sách. Luật Ngân sách nhà nước 2015 Mức bố trí dự phòng đã được thu hẹp từ 2% đến 4% tổng chi ngân sách mỗi cấp thay vì từ 2% đến 5% so với Luật Ngân sách nhà nước 2002.
Cộng đồng sẽ thực hiện việc giám sát NSNN
Theo đó, NSNN được giám sát bởi cộng đồng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp chủ trì tổ chức việc giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng. Nội dung giám sát ngân sách nhà nước của cộng đồng gồm:
- Việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước;
- Tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hằng năm;
- Việc thực hiện công khai ngân sách nhà nước theo quy định tại Điều 15 của Luật này.
Xem chi tiết tại Luật ngân sách nhà nước 2015 có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2017.