Vài điều cần biết về Luật quốc tịch Việt Nam

Điều 1 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 quy định: "Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam."

“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.” Đây là nội dung được quy định trong Luật Quốc tịch Việt Nam 2008. Theo đó, về nguyên tắc, nhà nước chỉ công nhận mỗi công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam trừ những trường hợp Luật có quy định khác thì công dân có thể có 2 quốc tịch. 

  • Việc công nhận công dân Việt Nam được mang 2 quốc tịch chỉ áp dụng với người định cư ở nước ngoài đã có quốc tịch Việt Nam và chưa bị mất quốc tịch Việt Nam. Trong trường hợp người nước ngoài xin nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép như:
    •  Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam;
    • Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam;
    • Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
  • Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật quốc tịch có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam;
  • Đến ngày 24/6/2014 (trước khi thời hạn 5 năm kết thúc), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Quốc tịch cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam trước ngày luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch. Như vậy, đến thời điểm này, chỉ khi công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì được phép có hai quốc tịch;

Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam hoặc có mẹ là người không quốc tịch nhưng thường trú tại Việt Nam còn cha không xác định rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam.

Đối với những người đã mất quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 26 Luật quốc tịch thì có thể xin trở lại quốc tịch Việt Nam theo luật định;

Công dân có quốc tịch Việt Nam có quyền thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài;

Công dân có quốc tịch Việt Nam cư trú trong nước hay nước ngoài nếu có hành vi gây phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc đến uy tín của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì có thể bị tước quốc tịch Việt Nam.

 

2235 lượt xem

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của LawNet. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email:info@lawnet.vn


  • Địa chỉ: 19 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286
    E-mail: info@lawnet.vn
Đơn vị chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3935 2079
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;