Chào chị Hoa, Ban biên tập xin gửi tới chị một số bản án về tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty mà chúng tôi đã cập nhật được
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Hồ Chí Minh
- Tóm tắt nội dung: Ông Trần Thanh T góp đủ phần vốn góp của mình vào Công ty cổ phần Tập đoàn F là: 1.500.000.000 đồng. Tuy nhiên, Sổ chứng nhận sở hữu cổ phần – Mã số CĐ. 20171101- cũng do do Chủ tịch HĐQT xác nhận số cổ phần sở hữu của ông T chỉ có 50.000 cổ phần mệnh giá 15.000VND/CP, tương đương là 750.000.000 đồng. Ông đã liên hệ những người có trách nhiệm của Công ty cổ phần Tập đoàn F, nhưng yêu cầu chính đáng hợp pháp của ông không được giải quyết. Hơn nữa, ông không hiểu vì sao cho đến nay không thấy Công ty cổ phần Tập đoàn F triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông. Do đó ông T khởi kiện yêu cầu: Công ty F thực hiện nghĩa vụ trả cho ông “0,6% lãi suất mỗi tháng” theo Quyết định của Công ty về việc phân chia quyền lợi cho cổ đông tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 103.500.000 đồng và hoàn trả phần vốn góp cho nguyên đơn là 750.000.000 đồng.
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
- Tóm tắt nội dung: Bà Phan Thị Thu H là thành viên của Công ty H. Vốn điều lệ Công ty là 30 tỷ đồng trong đó bà H góp vốn 10%. Hiện nay Công ty có khối tài sản là 2.406.396m2 đất thuê và tài sản trên đất là vườn cây cao su đang khai thác. Bà H được phân chia 16,2 ha (tương đương 7% trên tổng số 240,6 ha của Công ty, bà H tạm đồng ý 7%), bà H được đầu tư chăm sóc từ năm 2012 đến tháng 5/2016 thì Công ty đã gây áp lực và lấy lại không cho bà H khai thác vì lí do: bà H nhận được Thông báo phải thanh toán toàn bộ số nợ gốc và lãi cho Công ty, nếu không thanh toán thì sẽ thu hồi số diện tích vườn cây đã giao cho bà H. sau khi nhận được thông báo trên, bà H có đơn kiến nghị về việc đề nghị họp HĐTV Công ty nhưng Công ty đã không thông báo gì, mà sau đó gửi cho bà H “Biên bản họp thành viên” ngày 17/05/2016 mà không mời bà H dự họp. Phía Công ty tự căn cứ “Biên bản họp” ngày 17/05/2016 để thu hồi diện tích vườn cây đã giao cho bà H trước đó là trái với quy định của pháp luật. Do đó bà H khởi kiện đề nghị Tòa án buộc Công ty phải trả lại diện tích vườn cây cho bà.
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
- Tóm tắt nội dung: Công ty TNHH vận tải Phương H Y có hai thành viên, trong đó ông Trần Hữu Ph góp vốn 02 tỷ đồng chiếm 25% (thực tế ông góp 850 triệu đồng, ngoài ra ông còn có 04 chiếc xe vận tải). Đến ngày 02/6/2019 bà Trần Thị H là Giám đốc Công ty ra thông báo gửi Sở GTVT tỉnh Vĩnh Phúc tạm ngừng hoạt động 04 chiếc xe ô tô trên, lý do xe vào xưởng sửa chữa, nhưng thực tế 04 chiếc xe ô tô trên của ông không bị hỏng hóc gì, ông đã có đơn đề nghị Sở GTVT tỉnh Y giải quyết và đã hòa giải giữa hai bên nhưng không thành. Ngay sau khi hòa giải bà Trần Thị H đã ban hành Giấy đề nghị ngừng hoạt động 04 chiếc xe của ông. Do vậy, ông khởi kiện yêu cầu Công ty và bà H phải trả lại ông phần vốn góp vào Công ty và bồi thường thiệt hại cho ông.
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh
- Tóm tắt nội dung: ông C có góp vốn 500.000.000đ vào Công ty H nhưng không có lập biên nhận hay phiếu thu tiền vốn góp và được cấp Giấy chứng nhận góp vốn thành viên của công ty. Sau khi góp vốn, ông N là giám đốc công ty cho rằng công ty mới thành lập chưa ổn định, kinh doanh chưa có thuận lợi nên không có chia lãi cho ông C. Sau đó ông N nói cần mua đất để mở rộng sản xuất kinh doanh nên tạm thời không chia lãi cho các thành viên. Năm 2017, ông C tìm ông N để chia lợi nhuận thì ông N lánh mặt, qua tìm hiểu thì biết được ông N đang chuyển nhượng đất cho người khác. Do đó, ông C khởi kiện đến Tòa án yêu cầu giải quyết buộc Công ty H hoàn trả lại cho ông C 500.000.000đ và 250.000.000đ lợi nhuận góp vốn từ tháng 3/2010 đến nay.
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
- Tóm tắt nội dung: bà N ký hợp đồng nhận chuyển nhượng 160.000 cổ phần của ông B1 có tại Công ty Cổ phần ĐTQ và có văn bản gửi Công ty Cổ phần ĐTQ thông báo về việc chuyển nhượng cổ phần nhưng phía công ty không có văn bản trả lời và cho đến nay phía Công ty Cổ phần ĐTQ vẫn không ghi vào sổ cổ đông của Công ty nội dung bà N sở hữu 160.000 cổ phần nhận chuyển nhượng của ông B1 từ năm 2014, việc làm này của phía công ty đã gây ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của bà N với tư cách là cổ đông, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của bà N. Do đó bà N khỏi kiện yêu cầu Công ty Cổ phần ĐTQ ghi vào sổ cổ đông của Công ty việc bà N sở hữu 160.000 cổ phần.
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về