17/10/2022 15:10

Hành vi đăng tin tuyển dụng việc làm trên mạng nhằm lừa đảo: Xử lý thế nào?

Hành vi đăng tin tuyển dụng việc làm trên mạng nhằm lừa đảo: Xử lý thế nào?

Em gái tôi đọc tin tuyển dụng trên Facebook rồi nhắn tin xin việc làm. Ban đầu bên tuyển dụng hẹn phỏng vấn sau đó yêu cầu nộp phí 800.000 đồng phí hồ sơ và phí tuyển dụng. Hành vi này bị xử lý thế nào? “Hoàng Long-Thanh Hóa”

Ban Biên tập xin giải đáp thắc mắc của anh như sau:

Hiện nay, có nhiều hình thức lừa đảo thông qua các kênh việc làm trực tuyến, diễn đàn rao vặt, nhóm tuyển dụng, … trên facebook, zalo. Các đối tượng xấu đăng tuyển nhiều thông tin việc làm hấp dẫn, vẽ ra một công việc như mơ. Mặc dù đã được cơ quan chức năng, báo chí đưa tin, cảnh báo về các thủ đoạn lừa đảo nhưng do các đối tượng liên tục thay đổi phương thức, thủ đoạn và nắm bắt tâm lý, nhu cầu của người bị hại để thực hiện hành vi lừa đảo nên vẫn đã, đang lừa đảo được số tiền rất lớn của nhiều bị hại trên khắp cả nước.

Đối với những trường hợp đăng tin tuyển dụng việc làm rồi lừa tiền, tài sản của nạn nhân thì tùy vào tính chất, mức độ phạm tội mà xử phạt như sau:

- Xử phạt vi phạm hành chính:

Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo Điểm c Khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP

“Điều 15. Vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của tổ chức, cá nhân khác

Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản…”

Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

b) Dùng thủ đoạn hoặc tạo ra hoàn cảnh để buộc người khác đưa tiền, tài sản”.

Theo đó, trách nhiệm hành chính của người thực hiện hành vi vi phạm là:

- Trường hợp tổ chức vi phạm: bị phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

- Trường hợp cá nhân vi phạm: bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng

- Trách nhiệm hình sự:

Trường hợp thỏa cấu thành tội phạm của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định như sau:

Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ

… ”

Như vậy, nếu hành vi cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì khung hình phạt cao nhất có thể lên tới  12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân và có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

- Trách nhiệm dân sự:

Người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn phải bồi thường thiệt hại cho nạn nhân. Theo quy định tại Điều 584,589 Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam.

Theo đó, Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

Ngoài ra, trường hợp lừa đảo nhiều người nhưng mỗi người đều dưới 2 triệu thì vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự tội lừa đỏa chiếm đoạt tài sản. Căn cứ Khoản 5 Mục 2 Thông tư liên tịch 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV của Bộ luật Hình sự năm 1999

“5. Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu, nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; đã bị kết án nhưng chưa được xoá án tích...), đồng thời trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở hữu phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu:

a) Các hành vi xâm phạm sở hữu được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian.

b) Việc thực hiện các hành vi xâm phạm sở hữu có tính chất chuyên nghiệp, lấy tài sản do việc xâm phạm sở hữu mà có làm nguồn sống chính.

c) Với mục đích xâm phạm sở hữu, nhưng do điều kiện hoàn cảnh khách quan nên việc xâm phạm sở hữu phải được thực hiện nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị xâm phạm mỗi lần dưới 500 ngàn đồng.”

Mặc dù, Thông tư liên tịch 02 đã hết hiệu lực và hiện nay chưa có Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn quy định này của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung 2017).

Tuy nhiên, có thể vận dụng Thông tư liên tịch 02 trong trường hợp lừa đảo nhiều lần, mỗi lần đều dưới 2 triệu và chưa bị xử phạt vi phạm hành chính (theo Khoản 3 Mục 1 Công văn 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính do Tòa án nhân dân tối cao ban hành).

Trân trọng!

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của LawNet. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email:info@lawnet.vn
Như Ý
625


Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập

  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;