Judgment no. 35/2021/HSPT dated 14/01/2021 on obtaining property by fraud

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 35/2021/HSPT NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 406 /2020/TLPT-HS ngày 25 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo Thăng Đức H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 243/2020/HSST ngày 15 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo bị kháng cáoThăng Đức H, sinh năm 1993 Thường trú: Thôn Tân Đà, xã T H, huyện Đức Trg, tỉnh L Đồng; Chỗ ở:

22/21/6 đường số 21, Phường 8, quận G v, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề ngH: Giám đốc Công ty TNHH TM và DV H Đức Sài Gòn; Trình độ học vấn: 12/12;

Con ông Thăng Minh L và bà Nguyễn Thị H; Hoàn cảnh gia đình: Có vợ là Trần Thị Bích C và 01 con (sinh năm 2019); Tiền án, tiền sự: Không. Tạm giữ, tạm giam ngày 15/8/2019 (có mặt) Người bào chữa: Luật sư Đỗ H B, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt) Những người tham gia tố tụng:

- Bị hại:

1/ Ông Nguyễn Thanh L, sinh năm 1977 Thường trú: 1/3-0 cư xá Phan Đăng L, Phường 3, quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Bà Ngô Ng M , sinh năm 1977 Thường trú: 30/73 Đ Nh, phường S K, quận T Ph, Thành phố Hồ Chí Minh.

3/ Bà Phạm Minh Linh Th, sinh năm 1986 Thường trú: 183/28 Ng V Đ, Phường 11, quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh.

4/ Bà Nguyễn Quốc Nhã Tr, sinh năm 1977 Thường trú: 86/99/22 Âu Cơ, Phường 9, quận T B , Thành phố Hồ Chí Minh.

5/ Bà Nguyễn Thị Ng H1; sinh năm 1984 Thường trú: 37/2C Ngô Tất Tố, Phường 21, quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh.

6/ Bà Nguyễn Thị Hồng Ng, sinh năm 1984 Thường trú: 153/31/4 Lê Văn Thọ, Phường 8, quận G v, Thành phố Hồ Chí Minh.

7/ Ông Nguyễn Duy Kh, sinh năm 1982 Thường trú: 482/63 Lê Quang Định, Phường 11, quận G v, Thành phố Hồ Chí Minh.

8/ Bà Nguyễn Hoàng Anh Th, sinh năm 1999 Thường trú: 110 Trần Quang Diệu, Phường 14, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

9/ Ông Lê Duy Kh, sinh năm 1991 Thường trú: ấp Ph H 1, xã Hầu M B A, huyện C B tỉnh Tiền Giang.

10/ Bà L Thị Ng Th, sinh năm 1989 Thường trú: 69 tổ 3, xã Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

11/ Ông Trần Ng H, sinh năm 1977 Thường trú: 51/5A đường 359, phường Phước Long A, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.

12/ Bà Hà Thị Tuyết D, sinh năm 1976 Thường trú: 154/3B T H Đ, Phường 14, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như Tháng 3/2017, Thăng Đức H đăng ký thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ H Đức Sài Gòn (sau đây gọi tắt là Công ty H Đức Sài Gòn) do H làm giám đốc, có trụ sở chính tại 22/21/6 Đường số 21, Phường 8, quận G v, Thành phố Hồ Chí Minh và có chi nhánh tại số 17-19- 21 Nguyễn Văn Trỗi, Phường 12, quận Phú Nhuận, với ngành nghề kinh doanh là bốc xếp hàng hoá, vận tải hàng hoá bằng đường bộ.

Do cần tiền tiêu xài cá nH và cá cược bóng đá, Thăng Đức H tuy biết công ty không có chức năng chuyển tiền ra nước ngoài, nhưng vẫn đăng quảng cáo trên mạng Internet với nội D “Công ty nhận chuyển tiền và ngoại tệ từ Việt Nam đi các nước trên thế giới” làm nhiều người tin tưởng Công ty H Đức Sài Gòn có chức năng chuyển tiền ra nước ngoài, nên đã trực tiếp đến liên lạc với H để chuyển tiền.

Sau khi nhận được tiền, H không thực hiện chuyển tiền như thỏa thuận mà chiếm đoạt tiêu xài cá nH. Với thủ đoạn gian dối nêu trên, từ đầu tháng 6/2018 đến giữa tháng 8/2018, H đã nhận chuyển tiền rồi chiếm đoạt tài sản của nhiều người với tổng số tiền là 2.006.927.000 đồng, cụ thể như sau:

Vụ thứ 1: Chiếm đoạt số tiền 636.000.000 đồng của ông Nguyễn Thanh L, sinh năm 1977; thường trú tại số 1/3 Cư xá Ph Đ L, Phường 3, quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh, Ông Nguyễn Thanh L cần chuyển tiền số tiền 617.500.000 đồng vào tài khoản của Công ty Hồng Kông Pacific Gourp tại Trung Quốc và thông qua quảng cáo trên Internet, ông L biết Công ty H Đức Sài Gòn có nhận chuyển tiền, nên ông L đã điện thoại cho H để hỏi thông tin. H đồng ý và thông báo chi phí để chuyển số tiền 617.500.000 đồng đến Công ty tại Trung Quốc là 18.500.000 đồng, thời gian chuyển là 05 ngày.

Ông L hẹn ngày 08/6/2018 sẽ đến gặp để giao dịch chuyển tiền. Đúng hẹn, ông L đến Công ty H Đức Sài Gòn để chuyển số tiền như nói trên, H cho nH viên là Hà Ng NH thực hiện giao dịch, nhận tổng số tiền 636.000.000 đồng của ông L, trong đó gồm 617.500.000 đồng chuyển đi Trung Quốc và 18.500.000 đồng là tiền chi phí. NH viết phiếu thu tiền cho ông L nội D nhận đủ tiền.

Tuy nhiên, quá thời hạn, phía đối tác của ông L thông báo chưa nhận được tiền, nên ông L điện thoại yêu cầu H thực hiện việc chuyển tiền vào tài khoản của Công ty Hồng Kông Pacific Gourp, nhưng H không thực hiện chuyển tiền. Ông L đã đến Công ty H Đức Sài Gòn yêu cầu trả lại tiện thì H hẹn ngày 31/8/2018 sẽ hoàn trả lại. Đến hẹn, ông L đến nhận lại tiền thì Công ty đóng cửa, không liên lạc được nên ngày 27/8/2018 ông L đã làm đơn tố cáo H gửi Công an quận Phú Nhuận. Ngày 27/11/2019, H và gia đình đã trả lại cho ông L số tiền 636.000.000 đồng, ông L đã viết đơn bãi nại không yêu cầu xử lý hình sự đối với H.

Vụ thứ 2: Chiếm đoạt số tiền 360.720.000 đồng của bà Ngô Ng M , sinh năm 1977; thường trú tại số 30/73 Đ Nn, phường SK, quận T P, Thành phố Hồ Chí Minh:

Bà Ngô Ng M có nhu cầu chuyển tiền vào số tài khoản cá nH của người bạn là Doan Quỳnh đang định cư tại Mỹ. Bà M điện thoại cho H để hỏi thông tin và chi phí, được H thông báo chi phí để chuyển số tiền 15.303 Đô la Mỹ (USD) là 150 USD, thời gian chuyển là 02 ngày. Ngày 08/6/2018, bà M đến Công ty H Đức Sài Gòn để chuyển tiền, thì H cho nH viên là Hà Ng NH thực hiện việc giao dịch và nhận tổng số tiền 15.453 USD, hai bên tự quy đổi 15.453 USD là 360.720.000 đồng. NH viết phiếu thu cho bà M . Sau đó đến hẹn, người bạn thông báo chưa nhận được tiền nên bà M đến Công ty H Đức Sài Gòn để yêu cầu H trả lại tiền nhưng Công ty đóng cửa không liên lạc được.

Ngày 31/7/2018, bà M đã làm đơn tố cáo H gửi Công an quận Phú Nhuận. Ngày 29/10/2018, H đã trả lại cho bà M số tiền 255.000.000 đồng, ngày 25/5/2020 gia đình của H đã trả hết số còn lại 105.720.000 đồng cho bà M .

Vụ thứ 3: Chiếm đoạt số tiền 118.000.000 đồng của bà Phạm Minh Linh Thy, sinh năm 1986; thường trú tại 183/28 Ngn V Đ, Phường 11, quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh.

Do cần chuyển tiền sang Israel, ngày 09/6/2018, bà Thy đến Công ty H Đức Sài Gòn để chuyển số tiền 5.300 USD cho bà Ori (quốc tịch Israel) để mua hàng mỹ phẩm. H đồng ý và quy đổi số tiền 5.300 USD là 115.000.000 đồng, với phí chuyển là 3.000.000 đồng, H cam kết trong thời gian 10 ngày số tiền nói trên sẽ được chuyển đến tay người nhận. Bà Thy đã giao cho H tổng số tiền là 118.000.000 đồng, H có viết phiếu thu tiền.

Đến ngày 16/8/2018, bà Ori báo chưa nhận được tiền nên bà Thy đã đến Công ty H Đức Sài Gòn yêu cầu H trả lại tiền nhưng Công ty đóng cửa, điện thoại thì không liên lạc được với H. Ngày 16/8/2018, bà Thy làm đơn tố cáo H gửi đến Công an quận Phú Nhuận. Ngày 11/9/2018, H đã trả lại cho bà Thy số tiền 50.000.000 đồng, ngày 03/6/2019, gia đình H đã trả cho bà Thy số tiền 68.000.000 đồng.

Hiện nay bà Thy đã viết đơn bãi nại và yêu cầu không xử lý hình sự đối với H.

Vụ thứ 4: Chiếm đoạt số tiền 73.000.000 đồng của bà Nguyễn Quốc Nhã Tr, sinh năm 1977; thường trú tại số 86/99/22 Â C, Phường 9, quận T B :

Ngày 18/7/2018, bà Tr đến Công ty H Đức Sài Gòn để chuyển số tiền 71.000.000 đồng cho người tH ở Mỹ, H đã nhận chuyển số tiền trên và lấy phí chuyển là 2.000.000 đồng. Bà Tr đồng ý và đã chuyển khoản Internet Banking cho H tổng số tiền 73.000.000 đồng, H hẹn 02 ngày sau tiền sẽ được chuyển đến người nhận tại Mỹ. Sau đó, H gửi qua tin nhắn điện thoại cho bà Tr một lệnh chuyển tiền thành công nhưng người tH bà Tr thông báo không nhận được tiền. Bà Tr liên hệ lại báo cho H biết và yêu cầu trả lại tiền thì H hẹn đến ngày 14/8/2018 sẽ thanh toán.

Đến hẹn, H né tránh không gặp và cũng không trả lại tiền nên ngày 14/8/2018 bà Tr làm đơn tố cáo vụ việc gửi đến Công an quận Phú Nhuận. Ngày 15/8/2018, H đã trả lại cho bà Tr số tiền 73.000.000 đồng.

Vụ thứ 5: Chiếm đoạt số tiền 267.977.000 đồng của bà Nguyễn Thị Ng H1, sinh năm 1984; thường trú tại số 37/2C Ng T T, Phường 21, quận B Th.

Thông qua việc làm ăn kinh doanh, bà Nguyễn Thị Ng H1 có nhu cầu chuyển tiền sang Anh và Malaysia cho đối tác. Ngày 18/7/2018, bà H1 đến Công ty H Đức Sài Gòn để chuyển số tiền 136.406.000 đồng vào tài khoản số 03887308 của Công ty New Health Supplies có trụ sở tại Anh. H đồng ý nhận chuyển số tiền nói trên với phí chuyển là 2.700.000 đồng, hẹn trong 03 ngày sẽ thực hiện xong giao dịch. Đến ngày 24/7/2018, bà H1 tiếp tục đến Công ty H Đức Sài Gòn để giao dịch chuyển số tiền 127.571.000 đồng vào tài khoản số 3592365717 của Công ty Troinsn Triplets có trụ sở tại Malaysia.

H đã nhận chuyển sổ tiền nói trên với phí chuyển là 1.300.000 đồng, hẹn trong 03 ngày sẽ thực hiện xong giao dịch. Tổng số tiền bà H1 đã giao cho H để chuyển đi Anh và Malaysia là 267.977.000 đồng, H có viết phiếu thu số tiền này.

Sau đó, đối tác của bà H1 thông báo chưa nhận được tiền, nên bà H1 đã gọi điện yêu cầu H trả lại tiền. H đã hẹn bà H1 ngày 31/8/2018 sẽ hoàn trả lại toàn bộ. Nhưng đến ngày hẹn, H né tránh không trả tiền, nên ngày 30/8/2018, bà H1 làm đơn tố cáo hành vi của H gửi đến Công an quận Phú Nhuận. Ngày 17/9/2018, H đã trả lại cho bà H1 số tiền 150.000.000 đồng, hiện còn Thếu lại số tiền là 117.977.000 đồng chưa thanh toán được.

Vụ thứ 6: Chiếm đoạt số tiền 70.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị Hồng Ng, sinh năm 1984; thường trú tại số 153/31/4 L V Th, Phường 8, quận G v.

Do có nhu cầu chuyển tiền sang Mỹ, bà Ng đã điện thoại cho H để hỏi thông tin và chi phí để chuyển số tiền 2.600 USD thì được H cho biết chuyển số tiền trên với phí chuyển là 400 USD, thời gian chuyển là 03 ngày. Ngày 06/8/2018, bà Ng đến Công ty H Đức Sài Gòn để chuyển số tiền trên thì H cho nH viên là Hà Ng NH giao dịch và nhận số tiền 3.000 USD, tự quy đổi số tiền 3.000 USD vào ngày 06/8/2018 là 70.000.000 đồng, sau đó NH có phiếu thu đối với số tiền này. Ngày 9/8/2018, H thông báo không chuyển được tiền và hẹn đến ngày 13/8/2018 sẽ hoàn trả lại tiền cho bà Ng. Đến hẹn, H né tránh không gặp và cũng không trả lại tiền, nên ngày 09/11/2018, bà Ng đã làm đơn tố cáo hành vi của H gửi đến Công an quận Phú Nhuận. Ngày 15/8/2018, H đã trả lại cho bà Ng số tiền 70.000.000 đồng.

Vụ thứ 7: Chiếm đoạt số tiền 9.800.000 đồng của ông Nguyễn Duy Kh, sinh năm 1983; thường trú tại số 482/63 L Q Đ, Phường 11, quận B Th.

Ngày 07/8/2018, ông Kh đến Công ty H Đức Sài Gòn để chuyển số tiền 300 USD cho một ngưòi bán dụng cụ nha khoa tại Pakistan. H đã nhận chuyển số tiền 300 USD vói phí chuyển là 120 USD, hẹn trong thời gian 03 ngày tiền sẽ được chuyển đến tay người nhận, có viết phiếu thu đã nhận của ông Kh tổng số tiền là 420 USD, tự quy đổi thành tiền là 9.800.000 đồng.

Đến hẹn, người bán hàng cho ông Kh báo tin chưa nhận được tiền, ông Kh đã trình báo Công an quận Phú Nhuận. Ngày 02/11/2018, H đã trả lại số tiền 8.800.000 đồng cho ông Kh, còn 1.000.000 đồng ông Kh có yêu cầu được thanh toán.

Vụ thứ 8: Chiếm đoạt số tiền 48.580.000 đồng của bà Nguyễn Hoàng Anh Th, sinh năm 1999; thường trú tại số 110 Tr Q D, Phường 14, Quận 3:

Ngày 08/8/2018, bà Th đến Công ty H Đức Sài Gòn để chuyển số tiền 2000 USD vào số tài khoản cá nH cho một người tH đang sinh sống ở Mỹ. H đã nhận chuyển số tiền 2.000 USD với phí chuyển là 80 USD, hẹn 03 ngày tiền sẽ được chuyển đến người nhận, có viết phiếu thu đã nhận tống số tiền của bà Th là 2.080 USD, tự quy đổi ngày 8/8/2018 là 48.580.000 đồng. Đến ngày 14/8/2018, khi được người tH thông báo chưa nhận được tiền, bà Th đến Công ty H Đức Sài Gòn yêu cầu H trả tiền thì biết công ty đóng cửa và không liên lạc được với H. Ngày 14/8/2018, bà Th làm đơn tố cáo hành vi của H đến Công an quận Phú Nhuận. Ngày 15/8/2018, H đã trả lại cho bà Th số tiền 48.580.000 đồng.

Vụ thứ 9: Chiếm đoạt số tiền 37.100.000 đồng của ông Lê Duy Kh, sinh năm 1991; thường trú tại số 177/8/48 Luỹ Bán Bích, phường H Tân, quận T P.

Ngày 11/8/2018, ông Kh đến Công ty H Đức Sài Gòn để chuyển số tiền 1.500 USD vào số tài khoản cá nH của bà Varyukhin Anatoliy Vladimisovich tại Nga để mua một con chó Alakai. H đồng ý nhận chuyển số tiền trên với phí chuyển là 90 USD, hẹn trong 05 ngày sẽ chuyển tiền đến người nhận. Đồng thời H viết phiếu thu tiền đã nhận của ông Kh tổng số tiền là 1.590 USD, tự quy đổi ra tiền Việt Nam vào ngày 11/8/2018 là 37.100.000 đồng Đến ngày 16/8/2018, bà Varyukhin Anatoliy Vladimisovich báo chưa nhận được tiền nên ông Kh đến Công ty H Đức Sài Gòn yêu cầu H trả lại tiền thì mới biết Công ty đóng cửa, đồng thời cũng không liên lạc được với H, nên ngày 20/8/2018, ông Kh làm đơn tố cáo hành vi của H gửi đến Công an quận Phú Nhuận. Ngày 26/12/2018, H đã trả lại cho ông Kh số tiền 17.000.000 đồng. Gia đình của H đã trả lại cho ông Kh số tiền còn lại là 20.100.000 đồng.

Vụ thứ 10: Chiếm đoạt số tiền 14.150.000 đồng của bà L Thị Ng Th, sinh năm 1983; thường trú Ấp B Đ, xã Đ B, huyện V Th, tỉnh Kiên Giang:

Ngày 13/8/2018, bà Th đến Công ty H Đức Sài Gòn để chuyển số tiền 12.750.000 đồng vào số tài khoản của bà Masnie Boerhan Ali quốc tịch Indonesia. H nhận chuyển số tiền trên với phí chuyển là 1.400.000 đồng, hẹn trong thời gian 02 ngày sẽ chuyển đến tay người nhận. Đồng thời H viết phiếu thu tiền đã nhận của bà Th tổng số tiền là 14.150.000 đồng. Đến ngày 15/8/2018, H thông báo cho bà Th biết không chuyển được tiền và hẹn đển ngày 16/8/2018 sẽ hoàn trả lại tiền. Tuy nhiên khi đến hẹn, bà Th đến Công ty H Đức Sài Gòn thì Công ty đóng cửa và không liên lạc được H, nên ngày 22/8/2018, bà Th đã làm đơn tố cáo hành vi của H gửi đến Công an quận Phú Nhuận. Ngày 10/9/2018, H đã trả lại cho bà Th số tiền 14.150.000 đồng và bà Th đã viết đơn bãi nại không yêu cầu xử lý hình sự đối với H.

Đến ngày 27/11/2018, Thăng Đức H tiếp tục góp vốn với bà Ngô Thị Hoài Thương Em (sinh năm 1992, ngụ tại số 39 Đường số 6, Phường 15, quận G v) để thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ Thương Ngô có trụ sở tại số 672A42 Khu dân cư Cityland Park Hills, Phan Văn Trị, Phường 10, quận G v, đại diện pháp luật là bà Ngô Thị Hoài Thương Em, với ngành nghề kinh doanh của Công ty là vận chuyển hàng hoá. Sau đó, bà Thương Em thay đổi người đại diện pháp luật sang cho Thăng Đức H. Ngay khi là người đại diện pháp luật của Công ty TNHH TMDV Thương Ngô, H tiếp tục đăng quảng cáo lên Internet nhận chuyển tiền và ngoại tệ đi nước ngoài, tiếp tục chiếm đoạt tiền của hai người nữa, cụ thể là:

Vụ thứ 11: Chiếm đoạt số tiền 330.200.000 đồng của ông Trần Ng H, sinh năm 1977; thường trú: số 51/5A Đường 359, phường Phước L A, Quận 9.

Ngày 20/12/2018, ông H đến Công ty Thương Ngô để chuyển số tiền 326.900.000 đồng vào số tài khoản của Paul Pham tại Ngân hàng City Bank ở Mỹ. H đồng ý nhận chuyển số tiền trên và lấy phí chuyển là 3.300.000 đồng, hẹn trong 07 ngày tiền sẽ được chuyển đến số tài khoản người nhận. H viết phiếu thu tiền đã nhận của ông H tổng số tiền là 330.200.000 đồng. Đến hẹn, người tH của ông H báo chưa nhận được tiền, ông H đến Công ty Thương Ngô yêu cầu H trả lại tiền nhưng Công ty đóng cửa, không liên lạc được với H, nên ngày 17/01/2019 ông H làm đơn tố cáo hành vi của H đến Công an quận G v. Ngày 11/10/2019, H đã trả lại cho ông H số tiền là 330.200.000 đồng. Hiện nay, ông H đã viết đơn bãi nại không yêu cầu xử lý hình sự đối với H.

Vụ thứ 12: Chiếm đoạt số tiền 61.500.000 đồng của bà Hà Thị Tuyết D, sinh năm 1976; thường trú: 154/3B T H Đ, Phường 14, Quận 6:

Ngày 26/12/2018, bà D đến Công ty Thương Ngô để chuyển số tiền 60.000.000 đồng vào tài khoản cá nH của chị Trần Bảo Yến tại Ngân hàng City Bank ở Đài Loan. Hỉệp đã nhận chuyển số tiền nói trên và lấy phí chuyển tiền là 1.500.000 đồng, hẹn trong 03 ngày sẽ thực hiện xong. H viết phiếu thu tiền đã nhận của bà D tổng số tiền là 61.500.000 đồng. Đến hẹn, người tH của bà D thông báo chưa nhận được tiền nên bà D liên lạc với H để yêu cầu trả lại tiền nhưng không liên lạc được. Sau đó, ngày 21/01/2019, bà D làm đơn tố cáo hành vi của H gửi đến Công an quận G v. Ngày 17/8/2019, H đã trả lại cho bà D số tiền 61.500.000 đồng.

Hiện nay bà D đã viết đơn bãi nại không yêu cầu xử lý hình sự đối với H. Tại bản bản án hình sự sơ thẩm số 243/2020/HSST ngày 15 tháng 7 năm 2020, Tòa án nH dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Thăng Đức H 10 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/8/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 20/7/2020 bị cáo Thăng Đức H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Thăng Đức H cung cấp tài liệu, chứng từ về bồi thường Thệt hại, cho bị hại Nguyễn Thị Ng H1 117.977.000 đồng và đơn xin bãi nại của bà H1, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; biên lai thu số tiền 1.000.000 đồng của Cục Th hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh để bồi thường cho bị hại Nguyễn Duy Kh. Tổng số tiền bồi thường là 118.977.000 đồng.

Bị cáo Thăng Đức H giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã bồi thường, khắc phục toàn bô hậu quả; bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ già yếu, con còn nhỏ, bản tH là lao động chính trong gia đình.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Thăng Đức H 10 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là dưới mức khởi điểm của khung hình phạt vì bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo H tiếp tục bồi thường, khắc phục toàn bộ hậu quả là tình tiết mới, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo giảm nhẹ hình phạt, xử phạt bị cáo Thăng Đức H 09 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

‘Bị cáo H trình bày, bị cáo rất ăn năn, hối hận xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày, thống nhất về tội danh nhưng cần xem xét lại mức án cho phù hợp vì bị cáo trả lại tiền ngay từ đầu khi bị hại có yêu cầu nên số tiền chiếm đoạt rất ít, là hậu quả không lớn; hơn nữa công ty của bị cáo không có dịch vụ chuyển tiền và ngoại tệ ra nước ngoài nhưng bị cáo nhận tiền, rồi nhờ các công ty khác chuyển để hưởng chênh lệch về giá dịch vụ. Hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, cha mẹ già yếu, cha đang bị tai biến và con còn nhỏ. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo H đã cố gắng khắc phục toàn bộ hậu quả, bồi thường cho các bị hại số tiền 118.977.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ cho bị cáo H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2018 đến tháng 8/2018, Thăng Đức H là giám đốc Công ty H Đức Sài Gòn và sau đó là Công ty TNHH TMDV Thương Ngô không có chức năng chuyển tiền đi nước ngoài, nhưng vẫn đăng quảng cáo lên mạng Internet nhận chuyển tiền và ngoại tệ đi nước ngoài và nhận tiền của nhiều người để tiêu xài cá nH.

Bị cáo Thăng Đức H đã chiếm đoạt tài sản của 12 bị hại gồm các ông bà Nguyễn Thanh Lân, Ngô Ng M , Phạm Minh Linh Thy, Nguyễn Quốc Nhã Tr, Nguyễn Thị Ng H1, Nguyễn Thị Hồng Ng, Nguyễn Duy Kh, Nguyễn Hoàng Anh Th, Lê Duy Kh, L Thị Ng Th, Trần Ng H và Hà Thị Tuyết D với tổng số tiền 2.006.000.902 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Thăng Đức H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Bị cáo Thăng Đức H đã chiếm đoạt số tiền 2.006.927.000 đồng là phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo Thăng Đức H đã xâm phạm đến tài sản của người khác, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, cần pH xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nH tH của bị cáo, đã xử phạt bị cáo Thăng Đức H, 10 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nH tH tốt, đã tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường cho các bị hại và các bị hại có đơn bãi nại.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H xin giảm nhẹ hình phạt với lý do sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã cố gắng, tiếp tục bồi thường cho các bị hại số tiền 118.977.000 đồng, khắc phục toàn bộ hậu quả và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ mới; và bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ già yếu và con còn nhỏ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo H, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Thăng Đức H, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

Tuyên bố bị cáo Thăng Đức H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54 của Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung 2017.

Xử phạt: Bị cáo Thăng Đức H 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/8/2019.

- Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Bị cáo Thăng Đức H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.


703
Judgment/Resolution was reviewed
Document was referenced
Document was based
Judgment/Resolution is watching

Bản án 35/2021/HSPT ngày 14/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:35/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Agency issued: Tòa án nhân dân cấp cao
Field:Hình sự
Date issued: 14/01/2021
Is the source of Legal precedent
Judgment/Resolution First instance
Legal precedent was based
Judgment/Resolution Related to same content
Judgment/Resolution Appeal
Please Login to be able to download

You have not log in to your account!

Login
Register



  • Address: 17 Nguyen Gia Thieu, Vo Thi Sau Ward, District 3, Ho Chi Minh City
    Phone: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Parent company: THU VIEN PHAP LUAT Ltd
Editorial Director: Mr. Bui Tuong Vu - Tel. (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyen Van Troi, Ward 8, Phu Nhuan District, HCM City;