Bản số 07/2021/HNGĐ-ST ngày 24/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN SỐ 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Ngày 24 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 263/2020/TLST - HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020 về Tranh chấp Hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 05/3/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Quỳnh T, sinh năm 2000 HKTT: Xóm A, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên Chỗ ở hiện tại: Xóm 1, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình

- Bị đơn: Anh Nguyễn Trường G, sinh năm 1995 Địa chỉ: Xóm A, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (Chị T, anh G đều có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị Quỳnh T trình bày như sau:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh G kết hôn năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở tự nguyện và có tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại xóm A, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh G chơi bời, không tích luỹ cho gia đình, thường đánh chị nên chị nhận thấy hôn nhân không hạnh phúc, không thể hàn gắn được tình cảm nên vợ chồng đã quyết định sống ly thân không quan tâm đến nhau nữa. Chị T xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên kiến quyết xin được ly hôn với anh G.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có 01 con chung là Nguyễn Trần Minh K, sinh ngày 05/3/2020. Hiện con chung đang ở với chị T. Sau vợ chồng ly hôn, chị T có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Trường G trình bày: Về thời điểm kết hôn đúng như chị T trình bày, tuy nhiên anh xác định mâu thuẫn vợ chồng là do không cùng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Tuy vợ chồng đã tự hoà giải nhưng không thành, không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Anh G xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể chung sống với nhau được nữa, anh nhất trí ly hôn.

Về con chung: anh G xác định vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Trần Minh Khang, sinh ngày 05/3/2020. Khi ly hôn, anh nhường quyền nuôi con cho chị T, anh G tự cấp dưỡng cho con theo khả năng.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh xác đinh vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên toà án không xem xét, giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã ra Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải và tống đạt hợp lệ cho anh G nhưng anh đều vắng mặt. Sau khi nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử, anh G đề nghị toà án xét xử vắng mặt do anh bận công việc không thể thu xếp để tham gia phiên toà được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp Hôn nhân và gia đình bị đơn Hộ khẩu thường trú tại: huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Chị Trần Thị Quỳnh T và anh Nguyễn Trường G đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Quỳnh T và anh Nguyễn Trường G kết hôn tự nguyện, có đăng ký kêt hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Căn cứ lời khai của nguyên đơn, chị G trình bày vợ chồng sống không hạnh phúc do anh G mải chơi, không quan tâm đến vợ con và còn thường đánh chị nên chị nhận thấy hôn nhân không hạnh phúc nên vợ chồng đã sống ly thân và không quan tâm đến nhau nữa. Anh G cũng xác định mâu thuẫn vợ chồng là do không cùng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra cãi vã, vợ chồng đã tự hoà giải nhưng không thành, không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Anh G xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể chung sống với nhau được nữa, anh nhất trí ly hôn. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh G đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T.

Về con chung: Chị T và anh G có 01 con chung là Nguyễn Trần Minh K, sinh ngày 05/3/2020. Hiện cháu K đang ở cùng với chị T. Chị T có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con sau khi vợ chồng ly hôn và không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con; Anh G cũng đề nghị giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy con chung còn nhỏ rất cần sự chăm sóc của mẹ do đó cần giao con chung cho chị T trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Anh G có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh G vì chị T không yêu cầu.

Vì lợi ích của con, sau khi ly hôn, các đương sự có quyền thỏa thuận hoặc có quyền khởi kiện về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc về việc cấp dưỡng nuôi con nếu thấy cần thiết.

Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết do không có yêu cầu.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Trần Thị Quỳnh T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 228, 238, 271 và Điều 273 của BLTTDS 2015; Các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Nghị Quyết số:

326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Trần Thị Quỳnh T, cho chị Trần Thị Quỳnh T được ly hôn với anh Nguyễn Trường G.

2. Về con chung: Giao 01 con là Nguyễn Trần Minh K, sinh ngày 05/3/2020 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc đến khi có sự thay đổi khác.Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh G vì chị T không có yêu cầu. Anh G có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Án phí: Chị Trần Thị Quỳnh T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung quỹ Nhà nước. Được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006550 ngày 16/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Chị Trần Thị Quỳnh T và anh Nguyễn Trường G được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản số 07/2021/HNGĐ-ST ngày 24/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;