TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO YÊN - TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 18/6/2021 , tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 61/2021/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/6/2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Đào Tuấn T - sinh năm 1985 HKTT: Thôn M, xã A, huyện Q, Thái Bình Tạm trú: Tổ 8 B, phường V, thành phố N, Khánh Hoà Địa chỉ liên hệ: Số 99 N, P, TP N, Khánh Hoà Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê Thanh H - Luật sư Văn phòng luật sư Cao Hùng, Đoàn luật sư tỉnh Lào Cai. Có mặt.
Bị đơn: Chị Dương Thị H - sinh năm: 1987 Địa chỉ: Tổ 6B thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện nộp ngày 29/3/2021, bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Đào Tuấn T trình bày:
Anh và chị Dương Thị H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 26/12/2018 tại UBND thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai. Sau khi kết hôn anh chị chung sống có nhiều mâu thuẫn cãi vã nhau gây bất đồng quan điểm, hai người không còn quan tâm tin tưởng nhau nữa. Anh chị nhiều lần ngồi lại nói chuyện với nhau và gia đình hai bên cũng đã khuyên nhủ hàn gắn tình cảm cho anh chị nhưng không có kết quả. Hiện nay anh chị sống ly thân, anh T đang sống và làm việc tại Khánh Hoà còn chị H vẫn ở Bảo Yên. Nay mâu thuẫn của anh chị đã trầm trọng khiến cuộc sống chung không thể kéo dài, anh đề nghị Toà án giải quyết cho anh ly hôn với chị H. Về con chung, anh chị có một con chung là cháu Đào Tú A sinh ngày 14/8/2019 hiện đang ở cùng chị H. Do cháu còn nhỏ nên anh đồng ý để chị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu, anh đồng ý với yêu cầu cấp dưỡng của chị H. Về tài sản và công nợ chung, anh T không đề nghị Toà án giải quyết.
Đối với bị đơn chị Dương Thị H, lời khai ngày 12/5/2021 và tại phiên toà hôm nay chị thừa nhận sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân đúng là do vợ chồng bất đồng quan điểm thường xuyên cãi vã nhau, anh chị đã có lần nói chuyện tìm cách tháo gỡ nhưng không có kết quả. Từ cuối năm 2020 đến nay anh chị đã sống ly thân không ai quan tâm đến nhau, nay anh T xin ly hôn thì chị cũng nhất trí ly hôn vì chị không còn tình cảm với anh T. Về con chung, anh chị có một con chung là cháu Đào Tú A sinh ngày 14/8/2019, sau khi anh T nộp đơn ly hôn chị đã thay đổi tên cho cháu là Dương Tuệ A. Chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị trực tiếp nuôi dưỡng cháu và yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung là 3.000.000đ/tháng. Về tài sản và công nợ chung, chị H không đề nghị Toà án giải quyết.
Nguyên đơn, bị đơn đã cung cấp đầy đủ các tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Đối với vụ án này anh T có đơn xin vắng mặt tại tất cả các buổi làm việc, công khai chứng cứ, hoà giải và phiên xét xử của Toà án, toàn bộ các văn bản trình bày ý kiến của anh được chứng thực chữ ký tại Văn phòng công chứng. Tại đơn xin xét xử vắng mặt anh T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, tại phiên toà hôm nay chị H giữ nguyên ý kiến đã trình bày. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đề nghị Toà án chấp nhận yêu cầu của anh T, xử cho anh T ly hôn chị H và xử giao cháu Dương Tuệ A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh T đồng ý yêu cầu cấp dưỡng của chị H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng: Anh Đào Tuấn T có đơn yêu cầu giải quyết vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” với chị Dương Thị H. Căn cứ vào Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Anh T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Toà án xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân:
Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì anh Đào Tuấn T và chị Dương Thị H có đăng ký kết hôn ngày 26/12/2018 tại UBND thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai, hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Anh chị đều thừa nhận trong quá trình chung sống đã có nhiều mâu thuẫn xảy ra, cãi vã nhau bất đồng quan điểm, mặc dù anh chị đã ngồi lại nói chuyện với nhau để tìm cách khắc phục nhưng không có kết quả. Xét thấy mâu thuẫn của anh chị đã thực sự trầm trọng và hiện nay anh chị đang sống ly thân mỗi người một nơi không ai quan tâm tới nhau. Anh T xin ly hôn thì chị H cũng nhất trí, tuy nhiên do anh T vắng mặt tại phiên toà nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh T, xử cho anh chị ly hôn.
[3]. Về con chung: Anh T và chị H có một con chung là cháu Dương Tuệ A (tên cũ là Đào Tú A) sinh ngày 14/8/2019 hiện nay đang sống cùng chị H. Theo các tài liệu chứng cứ đương sự cung cấp thì chị H và anh T đều có đầy đủ điều kiện và khả năng nuôi dưỡng con chung. Các đương sự đều có nguyện vọng để chị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu và anh T nhất trí với yêu cầu cấp dưỡng của chị H, vì vậy căn cứ Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình Hội đồng xét xử giao cháu Dương Tuệ A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung là 3.000.000đ/tháng.
[4]. Về tài sản chung và công nợ chung: Các đương sự đều không có đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét Toà án giải quyết.
[5]. Về án phí: Anh T phải chịu án phí dân sự sơ thâm theo quy đinh của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;
khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1/ Xử cho anh Đào Tuấn T ly hôn chị Dương Thị H.
2/ Về con chung, xử giao cháu Dương Tuệ A sinh ngày 14/8/2019 cho chị Dương Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Đào Tuấn T có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung là 3.000.000đ/tháng cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.
Sau khi ly hôn anh Đào Tuấn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.
Kể từ ngày chị Dương Thị H có đơn yêu cầu thi hành án khoản tiền cấp dưỡng cho đến khi thi hành án xong, anh Đào Tuấn T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
3/ Về án phí: Anh Đào Tuấn T phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn và 300.000đ tiền án phí cấp dưỡng, tổng cộng là 600.000đ. Khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai theo biên lai số 0003275 ngày 26/4/2021, anh T còn phải nộp 300.000đ.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 13/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Yên - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về