Bản án XX/2021/HS-ST ngày 09/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN XX/2021/HS-ST NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 21/2021/HS-ST ngày 09 tháng 02 năm 2021, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123b/2021/HSST-QĐ ngày 22 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

TRẦN LÊ ĐÌNH K, giới tính: Nam, sinh ngày 28-12-1999 tại Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: 1416/31/12M Lê Đức T, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Phòng 302, số 18 đường 77, Khu phố 1, phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 11/12; con ông Trần Quang M và bà Lê Thị T; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt phạm tội quả tang ngày 27-6-2020. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ 20 phút ngày 27-6-2020, Tổ hình sự đặc nhiệm – Công an Quận 3 tuần tra trên tuyến đường Võ Văn Tần thì phát hiện Trần Lê Đình K đang dựng xe máy biển số 59V3 – 00972 trước số 69 Võ Văn Tần, Phường 6, Quận 3 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính. Lúc này, phát hiện Tổ tuần tra nên K móc từ trong túi quần phía trước bên phải gồm 01 gói nylon màu trắng bên trong có chứa 02 viên nén màu cam và 01 gói nylon chứa tinh thể không màu vứt xuống đất thì bị Tổ tuần tra phát hiện bắt giữ, đưa Khang cùng tang vật, phương tiện về Công an Phường 6, Quận 3 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, chuyển hồ sơ Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Quận 3 xử lý.

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Quận 3 tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Khang tại phòng 202, nhà số 18, đường 77, phường C, Quận D, phát hiện trong ngăn kéo bàn làm việc của Khang có: 10 gói nylon chứa tinh thể không màu, 13 gói nylon chứa chất bột màu trắng, 01 gói nylon chứa 26 viên nén màu cam, 01 gói nylon chứa 01 viên nén màu xanh lá cây, 01 gói nylon chứa 01 viên nén màu hồng, 01 gói nylon chứa 01 viên nén màu xanh, 01 gói nylon chứa 01 viên nén màu tím, 01 gói nylon chứa 01 viên nén màu hồng, 01 cân tiểu ly và một số bịch nylon.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Lê Đình K khai nhận: Số tang vật bị Công an thu giữ tại trước số 69 Võ Văn Tần, Phường A, Quận B và tại phòng trọ của K là hàng khay (Ketamine) và thuốc lắc do Khang mua của một thanh niên tên “Bưn” (chưa rõ lai lịch) vào khoảng đầu tháng 6-2020 với giá 26.000.000 đồng, mua về nhằm mục đích bán lại cho con nghiện kiếm lời. K mua ma tuý của “Bưn” được 04 lần, những lần này “Bưn” đều đến nhà K tại Quận D để giao. Đối với cân tiểu ly và một số gói nylon K mua về để cân và phân nhỏ ma túy ra bán cho con nghiện. Khoảng 00 giờ 47 phút ngày 27-6-2020, K đang ở nhà trọ thì nhận được cuộc điện thoại của một thanh niên (chưa rõ lai lịch) gọi điện đặt mua nửa hộp 5 khay (Ketamine) và 02 viên kẹo (thuốc lắc) với giá 3.500.000 đồng, hẹn giao tại số 69 Võ Văn Tần, Phường C, Quận 3. Khang yêu cầu người mua chuyển tiền vào tài khoản Sacombank số 060185048554 mang tên TRAN LE DINH K, rồi điều khiển xe gắn máy biển số 59V3-009.72 đi giao ma tuý. Đến nơi, K đang đứng chờ người mua ra nhận ma túy thì bị Công an Quận 3 bắt quả tang như đã nêu trên.

Ngoài lần phạm tội trên, K còn khai nhận: Vào lúc 02 giờ 11 phút ngày 17-6- 2020, có người sử dụng số thuê bao 0918016585 nhắn tin đặt mua ma túy thì K báo nửa hộp khay (Ketamine) giá 2.500.000 đồng và 03 (ba) viên thuốc lắc giá 750.000 đồng, tiền công K đi giao là 200.000 đồng, tổng cộng 3.450.000 đồng. K cũng yêu cầu người mua chuyển tiền vào tài khoản Sacombank số 060185048554 mang tên TRAN LE DINH K rồi đi giao ma túy cho người này.

Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra điện thoại của K, xác định có nội dung tin nhắn mua bán trái phép chất ma túy đúng như lời khai của K như trên. Qua đối chiếu bản sao kê giao dịch tài khoản ngân hàng số 060185048554 do ngân hàng Sacombank cung cấp, xác định có 02 cuộc giao dịch chuyển tiền trùng khớp với nội dung tin nhắn thu giữ trong điện thoại của K.

Ngày 09-10-2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 3 đã ra lệnh phong tỏa số tiền 6.950.000 đồng (là số tiền 02 đối tượng mua ma túy chuyển cho K) trong tài khoản số 060185048554 của K. Ngày 16-10-2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 3 đã ra Quyết định tạm giữ đ ồ vật tài liệu đối với số tiền trên, đề nghị ngân hàng Sacombank giải tỏa và chuyển số tiền tang vật vào tài khoản s ố 39490906161200000 của Công an Quận 3, mở tại Kho bạc Nhà nước Quận 3.

Theo Kết luận giám định số 1103 ngày 03-7-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh đối với số ma túy thu giữ của K, xác định:

- Gói 01: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1 là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 7,8805g, loại Ketamine.

- Gói 02: Bột màu trắng được ký hiệu mẫu m2 là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 17,7860g, loại Ketamine.

- Gói 03: 26 viên nén màu cam được ký hiệu mẫu m3 là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 9,0447g, loại MDMA.

- Gói 04: 01 viên nén màu xanh lá được ký hiệu mẫu m4 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3583g, loại MDMA.

- Gói 05: 01 viên nén màu hồng được ký hiệu mẫu m5 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3482g, loại MDMA.

- Gói 06: 01 viên nén màu xanh được ký hiệu mẫu m6 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3932g, loại MDMA.

- Gói 07: 01 viên nén màu tím được ký hiệu mẫu m7 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3479g, loại MDMA.

- Gói 08: 01 viên nén màu hồng được ký hiệu mẫu m8 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4224g, loại MDMA.

- Gói 09: 02 viên nén màu cam được ký hiệu mẫu m9 là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,6940g, loại MDMA; tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m10 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng l, 8847g, loại Ketamin.

Vật chứng vụ án:

- Mẫu vật còn lại sau giám định gồm: 09 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký của giám định viên Trần Đình Hải và cán bộ điều tra Vũ Ngọ Minh Nhân.

- Số tiền 6.950.000 đồng (do bị can mua bán ma túy mà có);

- 01 cân tiểu ly và một số bịch nylon.

- 01 thẻ VISA màu xanh rêu, số thẻ 4221510833676847 mang tên TRAN LE DINH K;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone đã qua sử dụng, màu trắng, màn hình bị nứt, số IMEI: 353097103709928; 01 thẻ sim Mobifone;

- 01 xe máy nhãn hiệu Suzuki Satria màu đen, biển số: 59V3 - 009.72, số khung: MH8DL11AZJJ165307, số máy: CGA1 - ID165304. Chiếc xe máy trên do Trần Lê Đình K đứng tên chủ sở hữu.

Tại bản cáo trạng số 87/CT-VKS-HS ngày 16-11-2020 Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố bị cáo Trần Lê Đình K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; đề nghị xử phạt bị cáo từ 09 năm đến 10 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu và nộp ngân sách nhà nước 01 xe máy biển số 59V3-009.72; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, 01 thẻ sim và số tiền 6.950.000 đồng. Tịch thu và tiêu hủy số ma túy, 01 cân tiểu ly, một số bịch nylon và 01 thẻ VISA.

Bị cáo Trần Lê Đình K đã nhận thấy hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường 6, Quận 3 lập ngày 27-6-2020; lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay; bản Kết luận giám định số 1103/KLGĐ-H ngày 03-7-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh; lời khai của những người làm chứng, vật chứng đã thu giữ được cùng với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 27-6-2020, bị cáo Trần Lê Đình K đã bị bắt quả tang có hành vi mua bán trái phép chất ma túy với tổng khối lượng là 39,1599 gr loại MDMA và Ketamin là đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp được qui định tại điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Trước khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo K hoàn toàn biết rõ tác hại của việc mua bán cũng như tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng vẫn bất chấp pháp luật và lao vào con đường phạm tội. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy do bị cáo thực hiện không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma túy và bài trừ tệ nạn sử dụng trái phép chất ma túy mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh các tội phạm khác và làm lan truyền các căn bệnh nguy hiểm chưa có thuốc chữa trong nhân dân; do vậy bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi mình đã gây ra.

[4] Tuy nhiên cũng xét tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ thật sự ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và bản thân chưa có tiền án, tiền sự; do đó áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Vật chứng của vụ án: Xét số ma túy do Cơ quan điều tra thu giữ là vật cấm lưu hành, tàng trữ; 01 xe máy biển số 59V3-009.72, 01 điện thoại di động hiệu Iphone và 01 thẻ sim là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; số tiền 6.950.000 đồng là tiền do phạm tội mà có cùng các vật chứng còn lại không có giá trị sử dụng; do vậy tịch thu, tiêu hủy và nộp ngân sách nhà nước số vật chứng trên là có căn cứ.

[6] Đối với đối tượng tên “Bưn” là người bán ma túy cho K do không xác định được lai lịch nên không có cơ sở để xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Lê Đình K đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Trần Lê Đình K 09 (chín) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bị bắt phạm tội quả tang là ngày 27 tháng 6 năm 2020.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu) nộp ngân sách nhà nước.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu và tiêu hủy: Mẫu vật còn lại sau khi đã phục vụ giám định được niêm phong có chữ ký của Giám định viên Trần Đình Hải và cán bộ Vũ Ngọ Minh Nhân (căn cứ theo Kết luận giám định số 1103/KLGĐ-H ngày 03-7-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh) gồm: Gói 1: Tinh thể không màu (m1) có khối lượng 7,7300gr; gói 2: Bột màu trắng (m2) có khối lượng 15,3257gr; gói 3: 24 viên màu cam (m3) có khối lượng 8,3525gr; gói 4 (m4) đã sử dụng hết; gói 5 (m5) đã sử dụng hết; gói 6 (m6) đã sử dụng hết; gói 7 (m7) đã sử dụng hết; gói 8 (m8) phần còn lại của viên nén màu hồng có khối lượng 0,3402gr; gói 9 (m9) 01 viên nén màu cam có khối lượng 0,3498gr; tinh thể không màu (m10) có khối lượng 1,4810gr;

01 cân tiểu ly; 01 thẻ VISA màu xanh rêu, số thẻ 4221 5108 3367 6847 mang tên TRAN LE DINH K và một số bịch nylon;

- Tịch thu và nộp ngân sách nhà nước: 01 xe gắn máy nhãn hiệu SUZUKI, số loại: SATRIA, màu sơn đen, mang biển kiểm soát 59V3-009.72, số khung: MH8DL11AZJJ165307, số máy: CGA1 – ID165304 (tình trạng xe đã qua sử dụng, máy móc bên trong không kiểm tra); 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng, số Imei trên khe sim: 353097103709928 (tình trạng máy đã qua sử dụng, màn hình nứt, máy móc bên trong không kiểm tra), kèm theo 01 thẻ sim Mobiphone và số tiền 6.950.000 đồng (sáu triệu chín trăm năm mươi ngàn).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

(Tài sản tịch thu, tiêu hủy; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước ghi trong Lệnh nhập kho vật chứng số 349/CSĐT-MT ngày 11-9-2020 và Phiếu chuyển khoản của Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín – Chi nhánh Tân Bình ngày 19-10-2020 vào tài khoản số 3949.0.9061612.000000 tại Kho bạc nhà nước Quận 3 của Công an Quận 3).

Áp dụng khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH3 ngày 25-11-2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo q uy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án XX/2021/HS-ST ngày 09/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:XX/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;