Bản án 01/2024/DS-PT về yêu cầu tháo dỡ công trình trả lại tài sản và thực hiện nghĩa vụ thanh toán

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 01/2024/DS-PT NGÀY 04/01/2024 VỀ YÊU CẦU THÁO DỠ CÔNG TRÌNH TRẢ LẠI TÀI SẢN VÀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THANH TOÁN

Ngày 04 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 125/2024/TLPT-DS ngày 10 tháng 11 năm 2024 về “Yêu cầu tháo dỡ công trình trả lại tài sản và thực hiện nghĩa vụ thanh toán”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 39/2023/DS-ST ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2023/QĐ-PT ngày 11 tháng 12 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 88/2023/QĐPT-DS ngày 21/12/2023 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Công ty TNHH T2.

Địa chỉ: B N, phường Đ, thành phố T, tỉnh T.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Thế H - Giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền của ông H: Bà Hà Thị Thu H1, sinh năm 1980.

Địa chỉ: B N, phường Đ, thành phố T, tỉnh T. Có mặt.

* Bị đơn: Ông Đỗ Quyết T, sinh năm 1971.

Nơi thường trú: Số nhà B C, phường B, thành phố T, tỉnh T.

Địa chỉ liên hệ: 01 L, phường Đ, thành phố T, tỉnh T. Có mặt.

* Người làm chứng:

+ Ông Trịnh Thành N, sinh năm 1979.

Nơi thường trú: Số nhà B L, phường Đ, thành phố T, tỉnh T.

Nơi ở hiện nay: Lô 2 N15 MB 2125, phường Đ, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt.

+ Ông Cao Văn H2, sinh năm 1970.

Nơi thường trú: Số nhà B, phường Đ, thành phố T, tỉnh T.

Nơi ở hiện nay: 178 đường N, phường Đ, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt.

* Người kháng cáo bị đơn: Ông Đỗ Quyết T, sinh năm 1971 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa phúc thm, nguyên đơn, bà Hà Thị Thu H1 là người đại diện theo ủy quyền của ông H trình bày.

Ngày 27/3/2019, sau khi Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh T tổ chức cưỡng chế, giao tài sản là sân bóng đá N cho Công ty TNHH T2 (gọi tắt là Công ty T2) theo bản án số 07/2018/KDTM-PT ngày 19/7/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh T, Công ty T2 đã giao cho ông Đô Quyết T trông coi và quản lý, khai thác sân bóng đá N. Sân bóng đá N có diện tích 4.788,1m2 nằm trong tổng diện tích 10.088,45m2 tại thửa đất số 333, tờ bản đồ số 20, có địa chỉ tại khu c, 02 đường N, phường Đ, thành phố T, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 756158 do UBND tỉnh T cấp ngày 07/8/2012 cho Công ty TNHH T2; Các công trình hạng mục tài sản trên đất tại thời điểm giao cho ông T trông coi, quản lý gồm 42 danh mục (theo biên bản cưỡng chế giao tài sản ngày 27/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T). Do ông T và ông H (Giám đốc công ty T2) có mối quan hệ quen biết và do ông H chỉ muốn giao cho ông T trông coi, quản lý sân bóng đá trong thời gian ngắn, vì vậy việc giao cho ông T trông coi, quản lý sân bóng chỉ được ông H và ông T thoả thuận bằng miệng (không được giao kết bằng văn bản). Theo thoả thuận, từ thời điểm được giao trông coi, quản lý sân bóng đá, mỗi tháng ông T có trách nhiệm giao lại cho công ty T2 số tiền 15.000.000 đồng. Từ tháng 4/2019 đến tháng 01/2022 (trừ thời gian sân bóng đá phải ngừng hoạt động do dịch covid 19), mỗi tháng ông T trực tiếp giao số tiền 15.000.000 đồng cho gia đình ông H bằng tiền mặt và việc giao nhận tiền không có giấy biên nhận. Từ tháng 2/2022 đến nay, ông T đã không thanh toán số tiền 15.000.000đ/tháng cho Công ty T2.

Trong quá trình được giao trông coi, quản lý sân bóng đá N, ông T đã có nhiều vi phạm và tự ý dựng lên phần bán bình lợp tôn phía trước cổng sân bóng nhằm mục đích kinh doanh (mở bán bia, rửa xe) để thu lợi.

Do sân bóng đá đã xuống cấp, cuối tháng 12/2021, ông H đã nhiều lần thông báo và yêu cầu ông T chấm dứt việc trông coi, quản lý và bàn giao lại sân bóng đá N cho Công ty T2 trước ngày 30/01/2022 để Công ty T2 tiến hành nâng cấp, sửa chữa sân bóng đá, nhưng ông T vẫn không thực hiện. Ngày 11/02/2022, Công ty T2 đã có văn bản chấm dứt việc trông coi, quản lý và khai thác sân bóng đá N đối với ông Đỗ Quyết T. Từ sau thời điểm Công ty T2 có văn bản thông báo chấm dứt việc trông coi, quản lý sân bóng đá đến nay, ông T không chấm dứt việc khai thác trái phép sân bóng đá N của Công ty T2.

Tại buổi xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản ngày 16/6/2023, Công ty T2 mới biết ông T có xây dựng thêm một số hạng mục tại sân bóng.

Nay Công ty T2 khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T giải quyết những vấn đề sau:

- Buộc ông Đỗ Quyết T phải trả lại nguyên trạng sân bóng đá N có diện tích 4.788,1m2 nằm trong tổng diện tích 10.088,45m2 tại thửa số 333, tờ bản đồ số 20 có địa chỉ tại khu C, số B đường N, phường Đ, thành phố T, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 756158 do UBND tỉnh T cấp ngày 07/8/2012 cho Công ty TNHH T2 và các công trình hạng mục tài sản trên đất (gồm 42 danh mục) theo biên bản cưỡng chế giao tài sản ngày 27/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

- Buộc ông Đỗ Quyết T phải tháo dỡ phần bán bình lợp tôn phía trước cổng sân bóng đá và các hạng mục khác do ông T tự ý dựng lên (ngoài các tài sản thuộc 42 danh mục theo biên bản cưỡng chế giao tài sản ngày 27/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T) để trả lại nguyên trạng tài sản cho Công ty T2.

- Buộc ông Đỗ Quyết T phải hoàn trả cho Công ty T2 số tiền khai thác, sử dụng sân bóng đá theo mức đã thỏa thuận là 15.000.000đ/tháng, kể tháng 2/2022 (từ thời điểm ông T ngừng thanh toán cho Công ty T2) tính đến thời điểm khởi kiện là tháng 02/2023 (13 tháng). Tổng số tiền Công ty T2 tạm yêu cầu ông Đỗ Quyết T phải hoàn trả là: 13 tháng x 15.000.000đ/tháng = 195.000.0000đ và tiếp tục buộc ông T phải thanh toán số tiền 15.000.000đ/tháng này cho đến thời điểm ông T trả lại sân bóng cho công ty T2.

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thay đổi một phần nội dung yêu cầu khởi kiện: Yêu cầu Tòa án buộc ông T phải tháo dỡ các tài sản do ông T tự ý dựng lên nhưng không phục vụ cho việc khai thác, sử dụng sân bóng để trả lại nguyên trạng sân bóng đá N và các công trình, hạng mục tài sản trên đất (gồm 42 danh mục) theo biên bản cưỡng chế giao tài sản ngày 27/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T cho Công ty T2. Đối với những tài sản ông T đầu tư, cải tạo làm tăng giá trị tài sản trên sân bóng, phục vụ cho việc khai thác sân bóng thì phía nguyên đơn đồng ý thanh toán lại giá trị những tài sản ông T đã đầu tư thêm này theo kết quả định giá tài sản ngày 16/6/2023. Và chỉ buộc ông T phải thanh toán cho Công ty T2 số tiền khai thác, sử dụng sân bóng đá theo mức đã thỏa thuận là 15.000.000đ/tháng, kể tháng 02/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm là 19 tháng. Tổng số tiền Công ty T2 yêu cầu ông T phải thanh toán là: 19 tháng x 15.000.000 đồng/tháng = 285.000.0000 đồng.

* Tại bản tự khai ngày 20/3/2023, quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa bị đơn là ông Đ Quyết T trình bày:

Giữa tôi và ông Trịnh Thế H (giám đốc công ty T2) có quan hệ anh em bạn bè quen biết. Ngày 27/3/2019, khi công ty T2 nhận lại sân bóng đá N từ Cơ quan thi hành án thì đã giao lại sân bóng cho tôi quản lý, khai khác. Khi giao sân bóng cho tôi thì giữa tôi và ông H chỉ thỏa thuận với nhau (bằng lời nói), không ký kết hợp đồng. Ông H đồng ý giao cho tôi quản lý, khai thác sân bóng từ tháng 3/2019 cho đến năm 2057 (hết thời hạn sử dụng đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) và mỗi tháng tôi giao lại cho ông H 15.000.000 đồng tiền lợi nhuận từ khai thác sân bóng. Từ tháng 4/2019 cho đến tháng 01/2022, mỗi tháng tôi đều giao đầy đủ cho ông H số tiền 15.000.000 đồng. Từ tháng 2/2022 cho đến nay, do hai bên xảy ra tranh chấp nên tôi không giao số tiền này cho ông H nữa. Tất cả các tài sản theo biên bản về việc cưỡng chế tài sản ngày 27/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T đều đã xuống cấp, được sự đồng ý của ông H, tôi đã đầu tư, sửa chữa, nâng cấp lại toàn bộ sân bóng hết 2.600.000.000 đồng. Hai bên có thỏa thuận nếu trường hợp ông H bán Công ty T2 hoặc muốn lấy lại sân bóng trước thời hạn đã thỏa thuận thì phải trả cho tôi 10% giá trị quyền sử dụng thửa đất số 333, tờ bản đồ số 20 có địa chỉ tại khu C đường N, phường Đ, thành phố T, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 756158 do UBND tỉnh T cấp ngày 07/8/2012 cho Công ty TNHH T2.

Tại bản tự khai ông T đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty T2 nếu Công ty T2 thực hiện đúng thỏa thuận là trả cho ông T 10% giá trị quyền sử dụng thửa đất số 333, tờ bản đồ số 20 có địa chỉ tại khu C đường N, phường Đ, thành phố T, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 756158 do UBND tỉnh T cấp ngày 07/8/2012 cho Công ty TNHH T2.

Tại buổi hòa giải ngày 09/8/2023, ông T trình bày: Nay Công ty T2 khởi kiện yêu cầu tôi phải tháo dỡ các công trình mà tôi đã đầu tư xây dựng và trả lại sân bóng cho Công ty T2 thì tôi đồng ý trả lại sân bóng cho công ty T2 nếu Công ty T2 hoàn trả cho tôi số tiền tôi đã đầu tư, xây dựng mới và sửa chữa sân bóng (số tiền và danh mục các hạng mục tôi đầu tư xây dựng mới và sửa chữa tôi sẽ liệt kê và làm đơn phản tố nộp cho Tòa án sau, nếu tôi không có đơn yêu cầu phản tố gửi cho Tòa án thì Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết. Ngoài ra Công ty T2 phải bồi thường cho tôi số tiền thiệt hại do Công ty T2 tự ý chấm dứt hợp đồng giao sân bóng trước thời hạn. (Hai bên không thỏa thuận nội dung phạt hợp đồng này nhưng ông H đã đồng ý giao sân bóng cho tôi quản lý, khai thác đến năm 2057). Số tiền cụ thể tôi yêu cầu Công ty T2 phải bồi thường cho tôi, tôi sẽ có đơn yêu cầu nộp cho Tòa án sau. Nếu tôi không có đơn yêu cầu thì đề nghị Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết.

Đối với số tiền Công ty T2 yêu cầu tôi phải trả cho Công ty T2 từ tháng 2/2022 cho đến khi tôi trả lại sân bóng cho Công ty T2 mỗi tháng 15.000.000 đồng thì tôi không đồng ý vì: Từ tháng 2/2022 cho đến nay do có xảy ra tranh chấp nên tôi khai thác sân bóng không có hiệu quả, số tiền thu được chỉ đủ trang trải, duy trì sân bóng, không có lợi nhuận.

* Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên tại các lời khai và tài liệu trong hồ sơ vụ án, đu trình bày:

Những người làm chứng đều là bạn của anh Trịnh Thế H và anh Đỗ Quyết T nên đều chứng kiến, vào khoảng đầu 2019 tại nhà anh T thì anh H có nói mọi người giúp anh H về việc sân bóng Thái T1 và giao cho anh T quản lý, khai thác, nếu anh H chuyển đổi được mục đích sử dụng đất thì phải trả cho anh T 10% giá trị quyền sử dụng đất dụng thửa đất số 333, tờ bản đồ số 20 có địa chỉ tại khu c đường N, phường Đ, thành phố T, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 756158 do UBND tỉnh T cấp ngày 07/8/2012 cho Công ty TNHH T2. Nếu không chuyển đổi được thì anh T được quyền khai thác sân bóng cho đến hết thời hạn sử dụng đất. Tất cả đều công nhận anh H và anh T thỏa thuận với nhau (bằng lời nói).

Về chi phí tố tụng: Phía nguyên đơn tự nguyện chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 39/2023/DS-ST ngày 18/9/2023 và Quyết định sửa chữa bổ sung bản án sơ thẩm số 55/2023/QĐ-SCBSBA ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T đã Quyết định:

Căn cứ: Khoản 2, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 92, Điều 157, Điều 165, Điều 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 166, Điều 169, Điều 275, 280, 483, 488, 493 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 26; khoản 1 Điều 27, điểm b tiểu mục 1.3 mục 1 phần II Mục A Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Buộc ông Đỗ Quyết T phải trả lại cho Công ty TNHH T2 diện tích sân bóng đá 4.788,1 m2 và các tài sản trên đất tại Khu C, đường N, phường Đ, thành phố T, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 756158 do UBND tỉnh T cấp ngày 07/8/2013, tại thửa đất số 333, tờ bản đồ số 20, người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất là Công ty TNHH T2, (danh mục bàn giao tài sản theo Hồ sơ Biên bản định giá tài sản ngày 16/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản và Thông báo kết quả định giá tài sản số 01/TB-TA ngày 21/6/2023 của Tòa án nhân dân thành phố T trừ ba tài sản là chuồng chó lợp tôn, diện tích: 5,07m2; chuồng chim bồ câu, cột sắt ø 90 cm, cao 1,4m).

- Buộc ông Đỗ Quyết T phải di dời chuồng chó lợp tôn, diện tích: 5,07m2; chuồng chim bồ câu, cột sắt ø 90 cm, cao 1,4m ra khỏi sân bóng đá N để trả lại sân bóng đá nêu trên cho Công ty TNHH T2.

- Buộc Công ty TNHH T2 phải trả cho ông Đỗ Quyết T số tiền mua lại tài sản trên đất mà ông T đã đầu tư, cải tạo sân bóng là: 107.591.850 đồng.

- Buộc ông Đỗ Quyết T phải thanh toán cho Công ty TNHH T2 số tiền được hưởng lợi từ việc khai thác, sử dụng dân bóng đá từ tháng 02/2022 đến tháng 9/2023 là: 19 tháng x 15.000.000 đồng/tháng = 285.000.0000 đồng. Đối trừ với số tiền Công ty TNHH T2 phải trả cho ông Đỗ Quyết T để mua lại tài sản trên đất mà ông T đã đầu tư, cải tạo sân bóng là: 107.591.850 đồng, thì ông T còn phải thanh toán cho Công ty TNHH T2 số tiền: 177.408.150 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án chậm thi hành thì hàng tháng còn phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành 2. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Công nhận nguyên đơn tự nguyện chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, nguyên đơn đã chi xong.

3. Về án phí:

Ông Đỗ Quyết T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với việc trả lại sân bóng và 14.250.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải hoàn trả cho Công ty T2. Tổng cộng phải nộp: 14.550.000 đồng tiền án phí.

Công ty T2 phải nộp án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền mua tại tài sản của ông Đỗ Quyết T là 5.380.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp: 5.175.000 đồng theo biên lai thu số AA/2021/0002780 ngày 21/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T. Công ty T2 còn phải nộp 205.000 đồng tiền án phí.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh T tham gia phiên tòa có ý kiến: về kiểm sát tuân theo pháp luật tố tụng, từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), những người tham gia tố tụng trong vụ án đều tuân theo pháp luật tố tụng Dân sự.

Về nội dung, đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự quyết định theo hướng:

Bác kháng cáo của bị đơn ông Đỗ Quyết T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 39/2023/DS-ST ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh hóa, tỉnh T.

Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo không được chấp nhận nên ông Đỗ Quyết T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa; xét kháng cáo của nguyên đơn và ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Về tố tụng và quan hệ pháp luật: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu Tòa án giải quyết về việc “Yêu cầu tháo dỡ công trình trả lại tài sản và thực hiện nghĩa vụ thanh toán”. Do đó có đủ căn cứ để xác định quan hệ pháp luật theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.

[2] Về tố tụng:

- Xét tính hợp pháp của kháng cáo: Ngày 18/9/2023, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xét xử sơ thẩm vụ án. Ngày 29/9/2023 Tòa án nhận được đơn kháng cáo của bị đơn ông Đỗ Quyết T; người kháng cáo đã nộp tiền tạm ứng án phí theo đúng quy định tại Điều 273; Điều 275 và Điều 276 BLTTDS nên đơn kháng cáo là hợp pháp, đúng quy định của pháp luật được thụ lý, xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

- Xét về vắng mặt người làm chứng: Những người làm chứng vắng mặt đã được triệu tập hợp lệ và đã có lời khai trực tiếp với Tòa án nên HĐXX vẫn tiến hành xét xử theo khoản 2 Điều 229 BLTTDS.

[3]. Xét kháng cáo của bị đơn ông Đ Quyết T đã kháng cáo:

Theo đơn kháng cáo ngày 29/9/2023 nội dung kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm về nội dung Quyết định của Tòa án nhân dân thành phố T, vì do quan hệ anh em thân thiết với nhau từ lâu nên chỉ có thỏa thuận bằng lời nói với nhau, cụ thể là ông H đồng ý giao cho ông T quản lý, khai thác sân bóng từ tháng 3/2019 cho đến năm 2057 (hết thời hạn sử dụng đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) và mỗi tháng ông T giao lại cho ông H 15.000.000 đồng tiền lợi nhuận từ khai thác sân bóng. Từ tháng 4/2019 cho đến tháng 01/2022, mỗi tháng ông T đều giao đầy đủ cho ông H số tiền 15.000.000 đồng. Từ tháng 2/2022 cho đến nay, do hai bên xảy ra tranh chấp nên ông T không giao số tiền này cho ông H nữa. Giữa ông T và ông H còn có thỏa thuận đầu tư, sửa chữa, nâng cấp lại toàn bộ sân bóng hết 2.600.000.000 đồng. Hai bên có thỏa thuận nếu trường hợp ông H bán Công ty T2 hoặc muốn lấy lại sân bóng trước thời hạn đã thỏa thuận thì phải trả cho ông T 10% giá trị quyền sử dụng thửa đất số 333, tờ bản đồ số 20 có địa chỉ tại khu C đường N, phường Đ, thành phố T, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 756158 do UBND tỉnh T cấp ngày 07/8/2012 cho Công ty TNHH T2.

Thỏa thuận bằng lời nói của ông T và ông H có ông Trịnh Thành N và ông Cao Văn H2 nhưng trong xét xử, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm không có mặt của hai ông là thiếu khách quan.

Trong quá trình giải quyết vụ án ông H đều không có mặt và không đối chất với nhau về các thỏa thuận như ông trình bày ở trên, mà chỉ cho người đại diện theo ủy quyền đến làm việc.

Hội đồng xét xử xét thấy:

+ Theo phía nguyên đơn trình bày thì Công ty T2 chỉ giao cho ông T trông coi, quản lý, khai thác sân bóng đá N trong một thời gian ngắn, từ tháng 3/2019 đến tháng 12/2021, ông H là giám đốc công ty T2 đã nhiều lần thông báo và yêu cầu ông T chấm dứt việc trông coi, quản lý, khai thác và bàn giao lại sân bóng đá N1 cho Công ty T2 trước ngày 30/01/2022 để Công ty T2 tiến hành nâng cấp, sửa chữa sân bóng đá, nhưng ông T vẫn không thực hiện. Theo ông T thì ông vẫn được tiếp tục quản lý, khai thác sân bóng từ tháng 3/2019 cho đến năm 2057 (hết thời hạn sử dụng đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Hai bên không thống nhất được thời gian kết thúc hợp đồng, ông T cùng người làm chứng là ông Trịnh Thành N, ông Cao Văn H2 đều khai là “bằng lời nói của anh H”, không có văn bản hay tài liệu nào chứng minh về thời gian Công ty T2 ký kết hợp đồng cho ông T được trông coi, quản lý, khai thác sân bóng đá Nam H3 đến năm 2057 nên không có căn cứ để chấp nhận theo yêu cầu của ông T là phù hợp. Theo quy định tại Điều 166, 483,493 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu người chiếm hữu phải trả lại tài sản đó cho mình, theo hợp đồng thuê khoán và trả lại tài sản thuê khoán vì vậy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật do đó Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.

+ Nội dung ông T cho rằng, ông T và ông H3 còn có thỏa thuận đầu tư, sửa chữa, nâng cấp lại toàn bộ sân bóng hết 2.600.000.000 đồng. Nhưng Công ty T2 và ông H3 không thừa nhận vì không biết việc này nhưng thực tế giá trị còn lại trên sân bóng N có phát sinh thêm một số tài sản mà cả hai bên đều thừa nhận do ông T đã đầu tư, sửa chữa, cải tạo gồm: Nhà vệ sinh 03 lavo, diện tích 4,69m2, trị giá: 9.544.000 đồng; nhà lợp tôn vỉ kèo sắt xây mới, diện tích 75,45m2, trị giá: 26.181.150 đồng; nền đá 30 x30, diện tích 111,7m2, trị giá 32.504.700 đồng; cửa sắt nhà vệ sinh, diện tích: 0,96m2, trị giá: 372.480 đồng; tường rào sắt lưới, diện tích 34,8m2, trị giá: 13.502.400 đồng; cổng sắt ống nước có ø 42 và ø 16, diện tích 7,99m2, trị giá: 3.100.120 đồng; tường rào xây gạch 110, bó trụ dài 29m, cao 2,2m, diện tích 63,8m2, trị giá: 16.269.000 đồng; cổng vào sân bóng thép hình, diện tích 4,6m2, trị giá: 1.784.000 đồng; lan can sắt hộp 10 dài 5,5m, trị giá: 2.134.000 đồng; bóng đèn 400 W, lắp thêm 11 bóng, trị giá: 2.200.000 đồng. Tổng giá trị các tài sản nêu trên là: 107.591.850 đồng, Tòa án cấp sơ thẩm đã buộc Công ty T2 phải trả cho ông số tiền này là phù hợp.

+ Nội dung ông T còn cho rằng hai bên có thỏa thuận nếu trường hợp ông H3 bán Công ty T2 hoặc muốn lấy lại sân bóng trước thời hạn đã thỏa thuận thì phải bồi thường thiệt hại và trả cho ông T 10% giá trị quyền sử dụng thửa đất số 333, tờ bản đồ số 20 có địa chỉ tại khu C đường N, phường Đ, thành phố T, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 756158 do UBND tỉnh T cấp ngày 07/8/2012 cho Công ty TNHH T2 vấn đề này Công ty T2 không thừa nhận nên quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã giải thích cho ông T và có văn bản số 174/TA-TP ngày 27/7/2023 hướng dẫn ông T nếu ông có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn vấn đề này thì ông phải làm đơn phản tố bằng văn bản và gửi tới Tòa án kèm theo các tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu phản tố của ông T theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 200, Điều 202 Bộ luật Tố tụng dân sự, trước thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông T không nộp đơn phản tố cho Tòa án cấp sơ thẩm xem xét vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm đã giành quyền khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác đối với các yêu cầu này của ông T theo quy định của pháp luật.

+ Người làm chứng ông Trịnh Thành N và ông Cao Văn H2 vắng mặt tại phiên tòa cấp sơ thẩm, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, ở Tòa án cấp sơ thẩm thì ông N và ông H2 đã làm việc với Tòa án và có bản tự khai ngày 31/5/2023. Tòa án cấp sơ thẩm đã triệu tập hợp lệ và trong bản án dân sự sơ thẩm cũng đã nhận định về lời khai của những người làm chứng này, nên HĐXX Tòa án sơ thẩm vẫn xét xử vắng mặt người làm chứng này theo khoản 2 Điều 229 BLTTDS là phù hợp.

+ Việc ông Trịnh Thế H để cho bà Hà Thị Thu H1 là người đại diện theo ủy quyền đến làm việc theo giấy ủy quyền ngày 04/01/2023, bà H1 thực hiện theo đúng quy định tại Điều 585 BLDS, nên yêu cầu của ông T không có cơ sở để xem xét.

+ Nội dung ông Đỗ Quyết T góp vốn với ông Lê Minh H4 và ông Dương Văn M là việc thỏa thuận riêng không liên quan đến Công ty TNHH T2. Các bên tự thỏa thuận hoặc có quyền yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.

+ Tại phiên tòa phúc thẩm ông T khai là từ tháng 3/2022 cho đến nay Công ty T2 đã cắt điện nên sân bóng không hoạt động được, ông T không có thu nhập, nhưng tại phiên tòa hôm nay ông T không cung cấp được tài liệu chứng minh về việc này nên không có căn cứ để chấp nhận.

+ Tại phiên phúc thẩm ông T khai là không đồng ý với kết quả định giá ở Tòa án án cấp sơ thẩm nhưng ông T không yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm định giá lại vì không có tiền để nộp chi phí định giá nên không có cơ sở để xem xét là phù hợp.

Từ phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy kháng cáo của bị đơn ông Đỗ Quyết T kháng cáo không có cơ sở để chấp nhận. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T đề nghị HĐXX giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ pháp luật.

[4] Về án phí: Buộc ông Đỗ Quyết T phải chịu 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận nhưng được trừ vào 300.000đ mà ông T đã nộp theo biên lai AA/2022/0003227 ngày 02/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh T.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 308; Điều 5; Điều 293; khoản 2 khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 92; khoản 2 Điều 229; khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Điều 166,169,275,280, 483,488,493 Bộ luật Dân sự 2015. Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Đỗ Quyết T. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm 39/2023/DS-ST ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T.

Án phí phúc thẩm dân sự: Buộc bị đơn ông Đỗ Quyết T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, được đối trừ vào 300.000đ mà ông T đã nộp theo biên lai AA/2022/0003227 ngày 02/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh T.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 01/2024/DS-PT về yêu cầu tháo dỡ công trình trả lại tài sản và thực hiện nghĩa vụ thanh toán

Số hiệu:01/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;