TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 25/2022/HCPT NGÀY 11/02/2022 VỀ YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
Ngày 11 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai, vụ án hành chính thụ lý số 82/2021/TLPT-HC ngày 03 tháng 3 năm 2021 về việc “Yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp đất đai”, do có kháng cáo đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 165/2020/HC-ST ngày 07 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 547/2022/QĐ-PT ngày 21 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1946; địa chỉ: số 9 -11, ngõ 178, xóm 14, phường Cổ Nh, quận Bắc Từ L, thành phố Hà Nội; có mặt.
2. Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận Bắc Từ L, thành phố Hà Nội;
Trụ sở: Tòa nhà CT6A, khu đô thị Kiều M, đường Kiều M, phường Phúc D, quận Bắc Từ L, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Thế C, chức vụ: Chủ tịch; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Kim V, chức vụ: Phó Chủ tịch; vắng mặt.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Nghiêm Thị H, sinh năm 1952; ông Võ Xuân Tr, sinh năm 1958; chị Võ Thị Ng, sinh năm 1991; đều trú tại: số nhà 15, ngõ 178, phường Cổ Nh 2, quận Bắc Từ L, thành phố Hà Nội; ông Tr, chị Ng vắng mặt; bà H có mặt.
3.2. Chị Phạm Thị Q, sinh năm 1983; chị Phạm Thị H1, sinh năm 1983; chị Trần Thị H2, sinh năm 1979; anh Phạm Mạnh H3, sinh năm 1973; anh Phạm Trung K, sinh năm 1975; cháu Phạm Hồng Ng1, sinh năm 2003; cháu Phạm Tiến Đ, sinh năm 2006; cháu Phạm Minh T, sinh năm 2010; cháu Phạm Trường Gi, sinh năm 2002; đều trú tại: xóm 14, phường Cổ Nh 2, quận Bắc Từ L, thành phố Hà Nội; có mặt chị H1, anh Hà, anh K; vắng mặt chị Q, chị H2, cháu Ng1, cháu Đ, cháu T, cháu Gi.
3.3. Ủy ban nhân dân phường Cổ Nh 2, quận Bắc Từ L, thành phố Hà Nội; người đại diện theo pháp luật: Ông Lưu Minh Đ1, chức vụ: Chủ tịch; vắng mặt.
3.4. Ủy ban nhân dân quận Bắc Từ L, thành phố Hà Nội;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Thế C, chức vụ: Chủ tịch; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Kim V, chức vụ: Phó Chủ tịch; vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Bà Nghiêm Thị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bà ngoại của bà Nghiêm Thị H là cụ Văn Thị C1, trựớc đây sở hữu 05 gian nhà trên diện tích đất 255m2 tại thửa số 65, tờ bản đồ 06, địa chỉ: phường Cổ Nh 2, huyện Từ L (nay là quận Bắc Từ L), thành phố Hà Nội). Theo bà Nguyễn Thị Th trình bày: Khoảng năm 1959 cụ C1 chuyển nhượng 2 gian nhà đất 123m2 cho ông Hoàng Văn Ch, năm 1969 ông Ch nhượng lại cho cụ Hai N (mẹ chồng bà) không còn lưu giữ được giấy tờ. Còn lại 3 gian nhà cụ C1 sử dụng ở, nay bà H đang sử dụng. Khi chuyển nhượng, cụ C1 và ông Ch đã ghi nhận lối đi chung của 2 gia đình. Nhà đất của cụ C1 đến nay được tách thành 02 thửa: Thửa 271 diện tích 123m2 mang tên ông Phạm Gia H4 (chồng bà Th); thửa 272 diện tích 136m2 mang tên bà Nghiêm Thị H. Từ khi nhận chuyển nhượng, hai gia đình vẫn giữ nguyên lối đi chung như cũ, sau có tranh chấp và hai bên đã nhiều lần thương lượng nhưng không có kết quả. Cụ thể: Ngày 27/5/1995 hai gia đình đã có biên bản họp giải quyết đất đai, nội dung xác định: Gia đình bà Nguyễn Thị Th vẫn được phép xây 2 cổng 2 bên theo gian nhà kéo thẳng từ cổng này sang cổng bên kia, phá dỡ bức tường đầu hồi cũ để làm lối đi chung, còn bà Nghiêm Thị H phải giữ nguyên cổng cũ, không được xây tịnh tiến ra ngoài. Cả hai bên phải thực hiện theo đúng văn bản thỏa thuận và có bản vẽ kèm theo. Biên bản có chữ ký của đại diện cho ông H4 là ông Phạm Hồng Đ2 (anh trai ông H4); đại diện cho bà H là ông Nghiêm Xuân Th1 (anh trai bà H) và đại diện xóm. Tuy nhiên, qua nhiều lần hòa giải, hai gia đình đều không thống nhất được việc sử dụng ngõ đi. Ngày 31/10/2001 UBND huyện Từ L ra Quyết định số 1440/QĐ-UBND, nội dung xác định: “Công nhận ranh giới, phạm vi ngõ đi chung giữa nhà bà Nghiêm Thị H và nhà ông Phạm Gia H4 là từ ngõ xóm 14 đến sau nhà ông Thanh Lợi và ngõ đi riêng vào gia đình nhà bà H tính từ tường rào nhà bà H và nhà ông H4 kéo dài 2,2m, rộng 2m. Giao cho UBND xã Cổ Nh xác định cụ thể ranh giới phạm vi ngõ đi chung, riêng”.
Thực hiện Quyết định số 1440 ngày 19/01/2002 UBND xã Cổ Nh tiến hành xác định ranh giới đất và ngõ của hai gia đình, ông H4 nay mới biết và không đồng ý với nội dung Quyết định số 1440. Sau ông có đơn khiếu nại gửi UBND xã và UBND thành phố Hà Nội (có biên lai bưu phẩm ghi số 013) để giải quyết; bà H nhất trí với Quyết định số 1440, việc xác định ranh giới thực tế không thực hiện được. Ngày 24/10/2012, bà Th tiếp tục gửi đơn khiếu nại Quyết định số 1440 đến UBND huyện Từ L. Ngày 18/5/2015 Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L (tách ra từ huyện Từ L) đã ban hành Quyết định số 1546/QĐ-ỤBND giải quyết khiếu nại của bà Th, với nội dung: “Hủy Quyết định số 1440/QĐ- UBND ngày 31/10/2001 của UBND huyện Từ L về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa gia đình bà H với gia đình ông H4 (bà Th); Giữ nguyên hiện trạng lối đi từ cổng của gia đình bà Nghiêm Thị H ra ngõ đi của xóm làm lối đi chung của gia đình bà Nghiêm Thị H và gia đình bà Nguyễn Thị Th (ranh giới được thể hiện theo hồ sơ kỹ thuật do Công ty cổ phần tư vấn đo đạc địa chính lập ngày 07/8/2014)”.
Sau khi ban hành quyết định này hai bên tiếp tục khiếu nại và Thanh tra thành phố Hà Nội đã tiến hành kiểm tra việc giải quyết khiếu nại Quyết định số 1546. Qua kiểm tra xác định: Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L giải quyết khiếu nại không đúng thủ tục, không đúng thẩm quyền. Nhận thấy Quyết định số 1546 của mình có sai sót, ngày 05/10/2015 Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L đã ra Quyết định số 4154/QĐ-UBNĐ, thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 1546/QĐ- UBND, với lý do: “Quyết định số 1546/QĐ-UBNĐ ngày 18/5/2015 của Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L chưa phù hợp với quy định tại Luật đất đai năm 2013 và Luật Khiếu nại năm 2011”.
Người khởi kiện (bà Th), cho rằng: Quyết định số 4154/QĐ-UBND về việc thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 1546/QĐ-UBND là không đúng pháp luật nên cần được hủy bỏ. Bà Th không đồng ý nội dung Quyết định số 1440 và đề nghị Tòa án tuyên hủy cả quyết định này.
Người bị kiện có quan điểm: xác định Quyết định số 1546 ngày 18/5/2015 của Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L giải quyết khiếu nại Quyết định số 1440 ngày 31/10/2001 là chưa phù hợp với quy định của Luật đất đai năm 2013 và Luật khiếu nại năm 2011. Ngày 05/10/20105 Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L đã ra Quyết định số 4154 ngày 05/10/2015 thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 1546/QĐ-UBND, việc thu hồi và hủy bỏ là đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nghiêm Thị H trình bày: Không đồng ý với nội dung khởi kiện của bà Nguyễn Thị Th, vì: Với các tài liệu, chứng cứ, căn cứ đã nộp pho Tòa án, khẳng định lối đi tại ngõ 178 xóm 14, đường Cổ Nh, phường Cổ Nh 2, Bắc Từ L, Hà Nội (ngõ đi trước cổng nhà tôi và nhà bà Th) hoàn toàn là đất của nhà bà H. Nhà bà Th khi mua nhà của nhà ông Hoàng Văn Ch là chỉ mua diện tích đất mà hiện nay gia đình nhà bà Th đã xây dựng nhà ở kiên cố, chứ không mua phần diện tích ngõ đi. Trong quá trình UBND huyện Từ L (nay là quận Bắc Từ L) giải quyết, đã ban hành các Quyết định giải quyết gồm: Quyết định số 1440/QĐ-UB ngày 31/10/2001 của UBND huyện Từ L về việc giải quyết đơn của bà Nghiêm Thị H ở ngõ 14 xã Cổ Nh. Trong Quyết định số 1440 đã công nhận ranh giới, phạm vi ngõ đi chung giữa nhà bà Nghiêm Thị H và ông Phạm Gia H4 (là chồng của bà Nguyễn Thị Th) là “từ ngõ xóm 14 đến sau nhà ông Thanh Lợi và ngõ đi riêng vào gia đình nhà bà H tính giữa nhà bà H và nhà ông H4 kéo dài 2,2m rộng 2m”. Sau đó, gia đình nhà bà Th đã làm đơn khiếu nại, nên ngày 18/5/2015, UBND quận Bắc Từ L đã ra Quyết định số 1546/QĐ-UB, về việc hủy Quyết định số 1440 nêu trên và giữ nguyên hiện trạng lối đi từ cổng của gia đình nhà bà H ra ngõ đi của xóm làm lối đi chung của gia đình nhà bà H và gia đỉnh nhà bà Th. Gia đình tôi đã làm đơn khiếu nại. Đến ngày 05/10/2015, UBND quận Bắc Từ L ra Quyết định số 4154/QĐ-UB để thu hồi và hủy Quyết định 1546 nêu trên. Như vậy, gia đình chúng tôi chỉ đồng ý với nội dung của Quyết định số 1440/QĐ-UB ngày 31/10/2001 và đề nghị thực hiện áp dụng theo nội dung của Quyết định số 1440 mà UBND huyện Từ L đã ban hành. Ngoài ra, gia đình chúng tôi không có đề nghị gì khác. Hiện nay, trên mảnh đất của gia đình tôi (số nhà 15 ngõ 178, đường Cổ Nh, phường Cổ Nh 2, quận Bắc Từ L, Hà Nội) có tôi, ông Võ Xuân Tr (chồng tôi) và Võ Thị Ng (con gái tôi) sinh sống. Nhưng thực tế, ông Tr không đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ nêu trên mà chỉ đăng ký tạm trú.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 165/2020/HC-ST ngày 07/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, đã quyết định: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 3, Điều 30, 32; Điều 164, Điều 6; Điều 191; điểm b khoản 2 Điều 193; Điều 206 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điều 38 Luật Đất đai năm 1993; Điều 52 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994; Điều 124, Điều 127 Luật Tổ chức UBND và HĐND năm 2003; điểm a khoản 2 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003; điểm a khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều 265, Điều 266 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án; Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Th. Hủy Quyết định số 4154/QĐ-UBND ngày 05/10/2015 của Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L về việc thu hồi và hủy bỏ Quyết định 1546/QĐ-UBND ngày 18/5/2015 của Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L; Hủy Quyết định 1546/QĐ-UBND ngày 18/5/2015 của Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L; Hủy Quyết định số 1440/QĐ- UB ngày 31/10/2001 của UBND huyện Từ L.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, thông báo quyền kháng cáo theo pháp luật.
Ngày 20/8/2020, bà Nghiêm Thị H có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm. Với nội dung đơn thể hiện: Không đồng ý với việc đã tuyên hủy Quyết định số 1440/QĐ-UB ngày 31/10/2001 của UBND huyện Từ L, Quyết định số 4154/QĐ-UBND ngày 05/10/2015 của Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L, làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bà H.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Bà Nghiêm Thị H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bà Nguyễn Thị Th nhất trí với bản án sơ thẩm.
Người bị kiện, một số người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Về tố tụng quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính; những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Phiên tòa được mở lần thứ hai, vắng mặt người bị kiện, một số người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập lần thứ hai, vì vậy, đề nghị xét xử vắng các đương sự theo quy định của pháp luật.
Về hướng giải quyết vụ án, sau khi phân tích nội dung vụ án, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, nội dung kháng cáo, kết quả tranh tụng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Bác kháng cáo của bà Nghiêm Thị H và giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 165/2020/HC-ST ngày 07/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính. Người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 4 Điều 255 Luật Tố tụng hành chính xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định chung.
[2]. Về đối tượng, thời hiệu, thẩm quyền khởi kiện: Ngày 02/8/2016, bà Nguyễn Thị Th có đơn khởi kiện đề nghị hủy Quyết định số 4154/QĐ-UBND ngày 05/10/2015 của UBND quận Bắc Từ L, về việc thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 1546/QĐ-UBND ngày 18/5/2015 của Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L. Các quyết định này có liên quan đến Quyết định số 1440/QĐ-UB ngày 31/10/2001 của UBND huyện Từ L. Đây là các quyết định hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai quy định tại Điều 22 Luật Đất đai nên thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Do vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội căn cứ tại Điều 3, Điều 30, Điều 32, Điều 115, điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính xác định đối tượng khởi kiện, thời hiệu, thẩm quyền, thụ lý giải quyết là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Về căn cứ ban hành các hành quyết định bị khởi kiện:
[3.1]. Xét Quyết định số 1440/QĐ-UB ngày 31/10/2001 của UBND huyện Từ L (nay là quận Bắc Từ L). Xét thấy, diện tích đất gia đình bà Nguyễn Thị Th, gia đình bà Nghiêm Thị H đang sử dụng và diện tích lối đi chung của hai gia đình có nguồn gốc là của Văn Thị C1 (bà ngoại của bà H), thuộc thửa đất số 65, tờ bản đồ số 06, diện tích 255m2, bản đồ đo vẽ năm 1960. Khoảng năm 1968, cụ C1 bán một phần cho ông Hoàng Văn Ch, tuy nhiên, việc mua bán không có giấy tờ lưu. Khoảng năm 1971, ông Ch bán lại diện tích đất trên cho cụ Hai N (mẹ ông Phạm Gia H4, mẹ chồng bà Nguyễn Thị Th) và gia đình ông H4 đã sử dụng từ đó đến nay. Lối đi chung giữa hai gia đình hình thành trước năm 1971 và sử dụng liên tục đến nay. Quá trình giải quyết tranh chấp trước đây, bà Nghiêm Thị H đề nghị giải quyết tranh chấp ngõ đi giữa gia đình bà H và gia đình ông Phạm Gia H4, Phòng Địa chính nhà đất có Báo cáo số 81/BC- ĐCNĐ ngày 18/10/2001, UBND huyện Từ L (cũ) căn cứ vào biên bản giải quyết ngày 19/3/1995, quyết định công nhận ranh giới, phạm vi ngõ đi chung giữa nhà bà Nghiêm Thị H và nhà ông Phạm Gia H4 là từ ngõ xóm 14, đến sau nhà ông Thanh Lợi và ngõ đi riêng gia đình bà H, tính từ tường rào giữa nhà bà H và nhà ông H4 kéo dài thêm ra 2,2m và rộng 2m; theo nội dung biên bản này thể hiện, hai gia đình thống nhất có một ngõ đi chạy từ ngõ xóm 14 vào đến sau nhà ông Thanh Lợi, tính từ tường rào giữa hai nhà kéo thêm ra 2,2m và ngõ đi rộng 2m, bà Thạc (con gái cụ Ngọ) được xây tường rào và ngõ đi riêng, việc bà Thạc xây tường rào và cổng phải đợi ông H4 xây dựng và hoàn thiện nhà chính, phần nhà cũ ông H4 tự dỡ đi và để ngõ rộng 2m để hai hộ cùng đi ra ngõ chung, biên bản có chữ ký của ông H4, cụ Ngọ và các thành phần tham gia, có xác nhận của UBND xã Cổ Nh. Sau đó, ngày 27/5/1995, hai gia đình đã có biên bản họp giải quyết đất đai, nội dung xác định gia đình bà Nguyễn Thị Th vẫn được phép xây hai cổng hai bên theo gian nhà, kéo thẳng từ cổng này sang cổng bên kia, phá dỡ bức tường đầu hồi cũ để làm lối đi chung, còn bà Nghiêm Thị Hà phải giữ nguyên cổng cũ, không được xây tịnh tiến ra ngoài, cả hai bên phải thực hiện theo đúng văn bản thỏa thuận và có bản vẽ kèm theo, biên bản có chữ ký của đại diện cho ông H4 là ông Phạm Hồng Đăng (anh trai ông H4), đại diện cho bà H là ông Nghiêm Xuân Th1 (anh trai bà H) và đại diện xóm. Như vậy, việc tranh chấp ngõ đi hai bên gia đình giải quyết bằng hai biên bản vào năm 1995, có sự tham gia của đại diện xóm, một số cán bộ địa phương nhưng nội dung khác nhau. Căn cứ biên bản ngày 19/3/1995 và ngày 27/5/1995, Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 28/5/2019, thể hiện ngõ tranh chấp có phần ngõ đi chung. Tuy nhiên, bản đồ đo vẽ năm 1986 lối đi đang có tranh chấp ranh giới thuộc thửa đất gia đình bà H sử dụng, việc này không phù hợp thực tế sử dụng từ trước đến nay. Biên bản ngày 19/3/1995, nội dung việc thực hiện không khả thi, ngay sau đó, ngày 27/5/1995 hai bên lập biên bản mới nhưng nội dung khác ban đầu, biên bản ngày 19/3/1995 theo khoản 1 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993 thì không được coi là biên bản hòa giải thành, thực tế hai gia đình vẫn tiếp tục tranh chấp lối đi, không thực hiện ranh giới theo nội dung trong các biên bản này. Quyết định số 1440/QĐ-UB ngày 31/10/2001, mặc dù thẩm quyền ban hành phù hợp Luật Đất đai 1993, nhưng nội dung công nhận lối đi riêng của gia đình bà H được tiến thêm 2,2m, việc này sẽ dẫn đến gia đình bà H phá cổng cũ, xây dựng công trình chắn trước mặt nhà ở của gia đình bà Th là không phù hợp, tiếp tục xảy ra tranh chấp, bản thân gia đình bà H cũng có cổng riêng tiếp giáp với lối đi được xây dựng vào khoảng năm 1999. Qua thực tế sử dụng, căn cứ kết quả thẩm định tại chỗ ngày 28/5/2019, hai hộ chỉ có một ngõ đi duy nhất, nếu công nhận ranh giới, phạm vi ngõ đi chung, ngõ đi riêng vào nhà bà Nghiêm Thị H như Quyết định số 1440, thì việc xây dựng các công trình ở khu vực sử dụng riêng của bà H sẽ chắn cửa nhà bà Th, cản trở việc đi lại, sinh hoạt của gia đình bà Th, không phù hợp với quy định về khai thác, sử dụng mốc, ranh giới ngăn cách bất động sản liền kề (lối đi chung) theo quy định tại Điều 265, Điều 266 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 248, Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hội đồng tư vấn giải quyết tranh chấp đất đai UBND phường Cổ Nh 2 đã có báo cáo, đề nghị UBND quận Bắc Từ L giải quyết tranh chấp theo hướng giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất và ngõ đi chung của gia đình bà H và gia đình bà Th. Việc UBND huyện Từ L (nay là quận Bắc Từ L) ban hành Quyết định số 1440/QĐ- UB ngày 31/10/2001 là không phù hợp pháp luật, làm ảnh hưởng quyền lợi hợp pháp của các đương sự.
[3.2]. Xét Quyết định số 1546/QĐ-UBND ngày 18/5/2015 của Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L. Xét thấy, Quyết định số 1440/QĐ-UB ngày 31/10/2001 là quyết định giải quyết tranh chấp đất đai, song một bên không đồng ý (ý kiến của ông Phạm Gia H4 ngày 19/01/2002), đồng thời khiếu nại đến cấp có thẩm quyền (xã Cổ Nh, huyện Từ L (cũ) và thành phố Hà Nội). Theo quy định tại khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013, thì thẩm quyền giải quyết thuộc Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, cơ quan khi tiếp nhận khiếu nại lẽ ra phải hướng dẫn ông H4, gửi đơn đến Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội để giải quyết theo thẩm quyền, tuy nhiên, ngày 18/5/2015 Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L ra Quyết định số 1546/QĐ-UBND, giải quyết khiếu nại đơn của bà Th (vợ ông H4) đối với Quyết định số 1440/QĐ-UB, mặc dù quyết định này về nội dung đã hủy Quyết định số 1440/QĐ-UB và giữ nguyên hiện trạng lối đi, nhưng việc Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L giải quyết khiếu nại là không đúng thẩm quyền, trái quy định của Luật Đất đai năm 2013, Luật Khiếu nại năm 2011, vì vậy, Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L đã ra quyết định thu hồi, hủy bỏ này theo Quyết định số 4154/QĐ-UB ngày 05/10/2015.
[3.3]. Xét Quyết định số 4154/QĐ-UB ngày 05/10/2015. Xét thấy, do Quyết định số 1546/QĐ-UBND không đúng thẩm quyền, nên việc ra quyết định thu hồi hủy bỏ của Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L mặc dù đúng thẩm quyền, tuy nhiên, khi hủy bỏ và thu hồi Quyết định số 1546/QĐ-UBND, Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L biết rõ nội dung Quyết định số 1440/QĐ-UB không phù hợp pháp luật, lẽ ra cần hủy bỏ thu hồi và có hướng giải quyết tranh chấp triệt để, tuy nhiên, việc này không được xem xét dẫn đến khiếu kiện kéo dài, làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
[4]. Với các căn cứ và nhận định trên, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 3, Điều 30, 32; Điều 164, Điều 6; Điều 191;
điểm b khoản 2 Điều 193; Điều 206 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điều 38 Luật Đất đai năm 1993; Điều 52 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1996; Điều 124, Điều 127 Luật Tổ chức UBND và HĐND năm 2003; điểm a khoản 2 Điều 136 Luật Đất đai năm 2003; điểm a khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều 265, Điều 266 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Luật Khiếu nại năm 2011, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Th; hủy Quyết định số 4154/QĐ-UBND ngày 05/10/2015 của Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L về việc thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 1546/QĐ- UBND ngày 18/5/2015 của Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L; hủy Quyết định số 1546/QĐ-UBND ngày 18/5/2015 của Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L; hủy Quyết định số 1440/QĐ-UB ngày 31/10/2001 của UBND huyện Từ L là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[5]. Xét kháng cáo của bà Nghiêm Thị H thấy: Việc UBND huyện Từ L (cũ), Chủ tịch UBND quận Bắc Từ L ban hành các quyết định liên quan đến giải quyết tranh chấp đất ngõ đi giữa gia đình bà H với gia đình bà Th là không phù hợp quy định của pháp luật, Tòa án cấp sơ thẩm đã hủy 03 (ba) quyết định là đúng quy định. Do vậy, kháng cáo của bà Nghiêm Thị H không có căn cứ, nên không được cấp phúc thẩm chấp nhận.
[6]. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ và lập luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7]. Về án phí: Bà Nghiêm Thị H kháng cáo không được chấp nhận, nên phải chịu án phí hành chính phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên, Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH
1. Bác yêu cầu kháng cáo của bà Nghiêm Thị H.
2. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 165/2020/HC-ST ngày 07/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
3. Về án phí: Bà Nghiêm Thị H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn) đồng án phí hành chính phúc thẩm, được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Nghiêm Thị Hà đã nộp tại Biên lai số 0020944 ngày 13/11/2020 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội. Xác nhận bà Hà đã nộp đủ tiền án phí phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp đất đai số 25/2022/HCPT
Số hiệu: | 25/2022/HCPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 11/02/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về