TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 436/2023/HC-PT NGÀY 19/06/2023 VỀ YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI THU HỒI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 19 tháng 6 năm 2023, tại Điểm cầu tổ chức phiên tòa trực tuyến gồm: Điểm cầu trung tâm - Phòng xét xử trực tuyến Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Điểm cầu xét xử - Phòng xét xử trực tuyến Tòa án nhân dân tỉnh A - Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 814/2022/TLPT-HC ngày 01 tháng 12 năm 2022 về việc “Yêu cầu hủy Quyết định quyết định bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi quyền sử dụng đất”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 20/2022/HC-ST ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh A bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1229/2023/QĐ-PT ngày 26 tháng 5 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Trần Văn T, sinh năm 1955 (có mặt);
Cư trú: Số 924, khóm Đông Th, phường Đông X, thành phố Long X, tỉnh A.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố Long X, tỉnh A;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đào Văn Ng – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Long X (Theo Văn bản ủy quyền số 3581/UBND-NC ngày 05/8/2022) (có mặt).
Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị kiện: Ông Bùi Quang Tr – Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố Long X, tỉnh A (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Huỳnh Kim M (vắng mặt); Cư trú: Số 924, khóm Đông Th, phường Đông X, thành phố Long X, tỉnh A.
- Người kháng cáo: Ủy ban nhân dân thành phố Long X, tỉnh A.
- Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Người khởi kiện ông Trần Văn T trình bày:
Ông T và vợ là Huỳnh Kim M có diện tích đất 1.645m2, tọa lạc tại phường Mỹ Hòa, thành phố Long X; Thửa số: 80, tờ bản đồ 87, loại đất: LNK được Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) thành phố Long X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ) số CH01548 ngày 29/11/2011.
Ngày 23/12/2021, UBND thành phố Long X ban hành Quyết định số 5129/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn T và bà Huỳnh Kim M để thực hiện Dự án Khu Tây Đại học A mở rộng, phường Mỹ Hòa, thành phố Long X.
Cùng ngày 23/12/2021, UBND thành phố Long X ban hành Quyết định số 5130/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ đối với ông Trần Văn T và bà Huỳnh Kim M, địa chỉ 924, khóm Đông Th, phường Đông X, thành phố Long X, gồm các khoản:
- Bồi thường chi phí về đất: 2.074.345.000 đồng + Đất LNK 1.645m2 x 1.261.000đ/m2 = 2.074.345.000 đồng;
- Bồi thường chi phí về cây trồng và vật nuôi: 301.038.000 đồng;
- Các chính sách hỗ trợ: 622.440.000 đồng.
+ Hỗ trợ chuyển đổi nghề: 1.645m2 x 360.000đ/m2 = 592.200.000 đồng + Hỗ trợ ổn định đời sống 12 tháng x 7nk x 360.000đ/tháng = 30.240.000 đồng.
Ông T cho rằng Quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố Long X không đúng với quy định pháp luật, đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi chính đáng của gia đình ông. Nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố Long X.
Người bị kiện UBND thành phố Long X: đã được Tòa án cấp sơ thẩm tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng gồm Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại nhưng không có ý kiến mà có đơn đề nghị vắng mặt suốt quá trình tố tụng vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Huỳnh Kim M có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; đồng thời yêu cầu Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện vì bà cho rằng Quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố Long X ban hành không đúng quy định làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của vợ chồng bà.
Tại phiên tòa sơ thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho UBND thành phố Long X trình bày: Việc UBND thành phố Long X ban hành quyết định thu hồi đất của ông Trần Văn T, bà Huỳnh Kim M để thực hiện Dự án Khu Tây Đại học A mở rộng tại phường Mỹ Hòa, thành phố Long X là công trình nhằm phát triển kinh tế xã hội. UBND thành phố Long X ban hành Quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 là đúng với trình tự, thủ tục quy định pháp luật. Về giá bồi thường quyền sử dụng đất, UBND thành phố đã căn cứ vào Quyết định phê duyệt giá đất bồi thường của UBND tỉnh A, dựa trên kết quả của Hội đồng thẩm định giá độc lập, có độ tin cậy chính xác và Tờ trình của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh để xác định. Việc người khởi kiện đưa ra Quyết định bồi thường đất cho ông Phạm Trí Diễn để so sánh giá bồi thường là không chính xác, bởi vì: đất của ông Diễn gần đường nhựa của Khu Dân cư Tây Đại học, mặc dù cùng là đất Mỹ Hòa nhưng đất ông Diễn chỉ cách đường nhựa một con kênh nên thuận đường đi, đồng thời nguồn vốn đầu tư xây dựng Dự án trên là nguồn vốn khác nên đề nghị Tòa không chấp nhận yêu cầu khởi kiện.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 20/2022/HC-ST ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh A đã tuyên xử:
Căn cứ:
Các Điều 32, 115, 116, 193, 194, 204, 206, 348 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Điều 9 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn T.
Hủy Quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố Long X về việc bồi thường, hỗ trợ đối với ông Trần Văn T và bà Huỳnh Kim M.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí hành chính sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 05/10/2022, người bị kiện UBND thành phố Long X kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện.
Ngày 27/9/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A có Quyết định kháng nghị số 11/QĐ-VKS-HC, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện người bị kiện trình bày ý kiến giữ nguyên kháng cáo của UBND thành phố Long X, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của Ủy ban và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A theo hướng sửa bản án sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện.
- Ông Trần Văn T không kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của UBND thành phố Long X, không chấp nhận kháng nghị. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Giữ nguyên kháng nghị.
Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Luật Tố tụng hành chính; các đương sự tham gia tố tụng tại phiên tòa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung kháng cáo, kháng nghị: Xét kháng cáo của UBND thành phố Long X và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A là có căn cứ. Vì khi giải quyết bồi thường thu hồi đất mà các chính sách hỗ trợ đã phù hợp. Nên yêu cầu khởi kiện của ông T là không có căn cứ. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của người bị kiện, chấp nhận kháng nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn T về việc yêu cầu hủy Quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố Long X.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của người bị kiện UBND thành phố Long X và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A làm trong thời hạn luật định, người bị kiện đã nộp tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện:
Ngày 13/6/2022 ông Trần Văn T khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố Long X. Tòa án nhân dân tỉnh A đã thụ lý, xét xử vụ án là đúng thẩm quyền, đúng đối tượng khởi kiện, vụ án còn trong thời hiệu khởi kiện được quy định tại khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; Điều 115; Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
[3] Xét kháng cáo của UBND thành phố Long X và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A, nhận thấy:
Đơn kháng cáo của UBND thành phố Long X và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A đều có nội dung cho rằng trong suốt quá trình thực hiện việc thu hồi đất, phía UBND thành phố Long X đã tiến hành đầy đủ các bước thông báo công khai trong nhân dân, phê duyệt phương án bồi thường, họp dân để lấy ý kiến về giá đất, công bố mức thưởng. Phía ông T bà M không có ý kiến thắc mắc, đồng ý với phương án bồi thường, hỗ trợ và nhận đủ số tiền hỗ trợ, tiền thưởng thêm. Do vậy yêu cầu của ông T bà M là không có cơ sở chấp nhận, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T, bà M.
[3.1] Về hình thức và thẩm quyền ban hành quyết định: Bản án sơ thẩm xác định Quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố Long X được ban hành đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 66 Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2013.
[3.2] Về nội dung:
[3.2.1] Về giá bồi thường: UBND thành phố Long X căn cứ vào Quyết định số 5114/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố Long X phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án Khu Tây Đại học A mở rộng để xác định giá đất bồi thường khi thu hồi quyền sử dụng đất. Đồng thời, giá đất nêu trong Quyết định 5114/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 lại căn cứ vào Quyết định 968/QĐ-UBND ngày 10/5/2021 của UBND tỉnh A về việc phê duyệt giá đất bồi thường dự án đầu tư xây dựng Khu Tây Đại học A mở rộng để xác định giá đất bồi thường đất trồng cây hàng năm là 1.261.000 đồng/m2. Tuy nhiên tại Quyết định 968/QĐ- UBND ngày 10/5/2021 của UBND tỉnh A nêu: “Điều 1. Phê duyệt giá đất bồi thường dự án đầu tư xây dựng Khu Tây Đại học A mở rộng, phường Mỹ Hòa, thành phố Long X theo đề nghị của Sở Tài nguyên và Môi trường tại Tờ trình số 231/TTr-STNMT ngày 28/4/2021” nhưng hồ sơ bồi thường khi thu hồi đất đối với hộ ông Trần Văn T (do người bị kiện cung cấp) không có Tờ trình 231/TTr-STNMT ngày 28/4/2021 mà chỉ có Tờ trình 232/TTr-STNMT ngày 28/4/2021 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A có nội dung giá đất đất trồng cây hàng năm là 1.261.000 đồng/m2.
Cấp sơ thẩm xác định việc UBND thành phố Long X xác định giá đất bồi thường chưa đúng về mặt thủ tục là không chính xác, vì đây chỉ là lỗi về kỹ thuật đánh máy.
Ngoài ra phía người khởi kiện có cung cấp Quyết định số 219/QĐ-UBND ngày 30/01/2019 của UBND thành phố Long X áp dụng đối với thửa đất có vị trí gần đất ông T. Nhưng đây là quyết định để thực hiện Dự án khu dân cư Tây Đại học vào năm 2019. Còn quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố Long X ban hành để thực hiện Dự án khu Tây Đại học A mở rộng. Đây là hai dự án hoàn toàn độc lập mà khác nhau về giá đất bồi thường. Đồng thời phần đất của ông Trần Văn T không có hạ tầng, đi lại khó khăn và cách xa khu dân cư Tây Đại học và giá đất bồi thường theo Quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 đã được thẩm định và thông qua Hội đồng thẩm định giá và đã được phê duyệt theo đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật.
Với những phân tích trên, xét thấy đơn kháng cáo của UBND thành phố Long X và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A, yêu cầu giữ nguyên giá đất bồi thường theo Quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố Long X là có cơ sở.
[3.2.2] Về các chính sách hỗ trợ:
Do ông Trần Văn T là người trực tiếp quản lý, sử dụng, canh tác trên diện tích đất bị thu hồi nên căn cứ quy định tại Điều 19, Điều 20 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ và Điều 27, Điều 28 của Quyết định số 33/2018/QĐ-UBND ngày 09/10/2018 của UBND tỉnh A thì ông Trần Văn T được hưởng chính sách hỗ trợ, gồm: Hỗ trợ, chuyển đổi nghề; Hỗ trợ ổn định đời sống, ổn định sản xuất. Trong đó:
+ Hỗ trợ ổn định đời sống: Quyết định 5130/QĐ-UBND xác định tiền hỗ trợ ổn định đời sống là 12 tháng x 7nk x 360.000đ/tháng = 30.240.000 đồng, là phù hợp quy định.
+ Hỗ trợ chuyển đổi nghề với mức hỗ trợ bằng tiền bằng 03 lần giá đất nông nghiệp cùng loại, cụ thể:
Theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 08/8/2022 xác định toàn bộ diện tích đất của ông Trần Văn T nằm trọng trong khu vực 300m tính từ đường ranh giới hành chính phường Mỹ Phước - Mỹ Hòa.
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 9 vào Quyết định 70/2019/QĐ-UBND ngày 23/12/2019 của UBND tỉnh A về ban hành bảng giá các loại đất áp dụng giai đoạn 2020-2024 trên địa bàn tỉnh A thì đất ông T thuộc đất khu vực giáp ranh giữa 02 phường Mỹ Phước, Mỹ Hòa. Do đó giá đất ông T theo quy định của Quyết định 70/2019/QĐ-UBND là (158.000 đồng/m2 + 120.000 đồng/m2): 2 = 139.000 đồng/m2.
Như vậy tiền hỗ trợ phải được tính là (139.000 đồng/m2 x 3) x 1.645m2.
Tuy nhiên tại Quyết định 5130/QĐ-UBND chỉ tính (120.000 đồng/m2 x 3) x 1.645m2 là không đúng quy định. Nên cần hủy một phần quyết định trên về phần này để UBND thành phố Long X thực hiện cho phù hợp theo quy định của pháp luật.
Từ các phân tích trên cho thấy UBND thành phố Long X ban hành Quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 về việc bồi thường, hỗ trợ đối với ông Trần Văn T và bà Huỳnh Kim M là chưa đúng quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của người khởi kiện về phần hỗ trợ chuyển đổi nghề nên chấp nhận một phần kháng cáo của UBND thành phố Long X và một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát và đại diện hợp pháp của người bị kiện UBND thành phố Long X đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn T về việc yêu cầu hủy Quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố Long X về việc bồi thường, hỗ trợ đối với ông Trần Văn T và bà Huỳnh Kim M là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận, sửa bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí: Án phí hành chính sơ thẩm: Ông Trần Văn T là người cao tuổi nên được miễn.
Án phí hành chính phúc thẩm: UBND thành phố Long X, tỉnh A không phải nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 241 của Luật Tố tụng Hành chính năm 2015, Chấp nhận một phần kháng cáo của Ủy ban nhân dân thành phố Long X, tỉnh A; Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A. Sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 20/2022/HC-ST ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh A.
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn T.
Hủy một phần Quyết định số 5130/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố Long X về chuyển đổi nghề đối với ông Trần Văn T và bà Huỳnh Kim M.
2. Về án phí:
Án phí hành chính sơ thẩm: Ông Trần Văn T là người cao tuổi nên được miễn.
Án phí hành chính phúc thẩm: Ủy ban nhân dân thành phố Long X, tỉnh A không phải nộp. Được nhận lại số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số 0000323 ngày 05/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh A.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 436/2023/HC-PT về yêu cầu hủy quyết định bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 436/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 19/06/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về