TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 09/2022/DS-ST NGÀY 08/09/2022 VỀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Ngày 08 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 38/2022/TLST-DS ngày 21 tháng 6 năm 2022, về “yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2022/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2022/QĐST-DS ngày 25 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Phạm Văn N., sinh năm 1954 Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn S., huyện S, tỉnh Tuyên Quang (có mặt).
* Bị đơn:
1. Anh Dương Thế L., sinh năm 1972 Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn S., huyện S, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt, có đơn xin xử vắng mặt).
2. Anh Dương Văn G., sinh năm 1974 Địa chỉ: Tổ 2, thị trấn M, huyện V, tỉnh Hà Giang (vắng mặt, có đơn xin xử vắng mặt).
* Những người làm chứng:
1. Ông Hà Đăng Th., sinh năm 1947 Địa chỉ: Tổ dân phố Đ, thị trấn S., huyện S, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt).
2. Ông Dương Đức T., sinh năm 1943 Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn S., huyện S, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Chiều ngày 07/3/2022, tại gia đình ông Dương Đức T. thuộc tổ dân phố B, thị trấn S., huyện S, tỉnh Tuyên Quang có xẩy ra xô sát giữa ông Phạm Văn N. với anh Dương Thế L.. Hậu quả ông N. bị thương tích có vào Trung tâm y tế huyện Sơn Dương khám và điều trị. Căn cứ kết quả xét nghiệm Covid-19 thể hiện ông N. dương tính với vi rút Corona nên ông N. không làm thủ tục nhập viện mà về tự mua thuốc điều trị ở nhà. Sau khi sự việc xẩy ra, ông N. có báo Công an thị trấn S. đến lập biên bản giải quyết ban đầu. Công an thị trấn S. đã có Quyết định trưng cầu giám định sức khỏe đối với ông N. nhưng ông N. có đơn từ chối giám định đồng thời ông N. cũng có đơn đề nghị không khởi tố vụ án hình sự. Ngày 07/4/2022 ông Phạm Văn N. có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc anh Dương Thế L. và Dương Văn G. có trách nhiệm bồi thường thiệt hại sức khỏe, danh dự nhân phẩm cho ông N..
Quá trình giải quyết và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Phạm Văn N. trình bầy: Do là chỗ quen biết nên khi được tin ông Dương Đức T. chuẩn bị dỡ nhà cũ, ông N. đến xem gia đình ông T. có tài sản nào không dùng đến để xin hoặc mua rẻ về làm từ thiện cho những người họ cần. Nhưng khi đến nơi chưa kịp nói chuyện thì 02 người con của ông T. xông đến đuổi ông đi, ông chưa kịp có ý kiến gì thì 02 anh đã xông vào đánh ông. Cụ thể dùng tay, chân đánh vào vùng bụng, đầu, mặt của ông gây thương tích. Sau khi bị đánh ông có đi bệnh viện điều trị, nhưng do khi kiểm tra sức khỏe phát hiện ông mắc bệnh Covid-19, bệnh viện đã không cho ông nhập viện điều trị nên ông đã về mua thuốc điều trị tại nhà. Sau khi sự việc xẩy ra ông có báo Công an thị trấn S. đến lập biên bản giải quyết ban đầu, Công an thị trấn có quyết định cho ông đi giám định sức khỏe nhưng ông đã từ chối vì ông không có kinh phí để giám định. Nay sức khỏe của ông vẫn chưa ổn định, vẫn còn đau nên ông đề nghị Tòa án giải quyết buộc anh Dương Thế L. và anh Dương Văn G. cùng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại sức khỏe cho ông là 30.000.000 đồng, bồi thường danh dự nhân phẩm cho ông là 20.000.000 đồng, tổng cộng 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).
Tại biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ, bị đơn anh Dương Thế L. trình bầy: Do có mối quan hệ quen biết với ông Dương Đức T. - bố anh, thấy bố anh góa vợ nên ông Phạm Văn N. hay dẫn gái tới cho ông T. và tư vấn cho ông T. mua thuốc nâng cao sức khỏe. Khi biết sự việc anh đã góp ý nhiều lần nhưng ông N. không nghe nên cứ thấy ông N. đến chơi là anh đuổi. Ngày 7/3/2022 ông N. đến rủ ông T. đi nghe tư vấn thuốc, anh Dương Văn G. biết sự việc liền đuổi ông N. đi và xảy ra cãi nhau, thấy vậy anh sang xem tình hình như thế nào. Sau khi biết được ông N. lại đến dụ dỗ ông T. mua thuốc để hưởng hoa hồng, anh nóng tính nên tát cho ông N. 02 phát cảnh cáo thì ông N. mới chịu đi. Nay ông N. khởi kiện yêu cầu anh bồi thường thiệt hại sức khỏe cho ông N. thì anh không đồng ý, không nhất trí bồi thường cho ông N..
Tại biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ, bị đơn anh Dương Văn G. trình bầy: Anh được biết ông Phạm Văn N. đã nhiều lần đến nhà ông Dương Đức T. – bố đẻ anh để dụ dỗ, lừa đảo ông T. mua sản phẩm đa cấp, dụ dỗ môi giới phụ nữ cho ông T.. Anh ở xa thi thoảng mới về thăm bố thấy vậy có gặp ông N. và yêu cầu không được dụ dỗ lừa gạt ông T. nữa. Ngày 07/3/2022 ông N. lại đến dụ dỗ ông T. đi mua thực phẩm bảo vệ sức khỏe không rõ nguồn gốc. Khi đó anh ở trong nhà nghe tiếng và chạy ra đuổi ông N. đi nhưng ông vẫn cố tình ở lại và còn nói to tiếng. Anh L. nghe to tiếng nên chạy sang kéo ông N. ra, 2 bên vùng vằng với nhau khoảng 5 -10 phút, không xảy ra đánh nhau mà chỉ lôi kéo xô đẩy nhau. Anh xác định anh không được đánh ông N. nên anh không nhất trí yêu cầu khởi kiện của ông N..
Lời khai người làm chứng ông Dương Đức T. có trong hồ sơ thể hiện: Khoảng 17 giờ ngày 07/3/2022 ông Phạm Văn N. và ông Hà Đăng Th. đến nhà ông, khi đến ông Th. ở ngoài, ông N. vào nhà. Khi ông và ông N. đang nói chuyện về việc ông N. rủ ông tham gia chương trình nâng cao sức khỏe người cao tuổi nhưng ông không đồng ý. Sau đó các con của ông là Dương Thế L. và Dương Văn G. ra bảo ông N. về, ông N. không về nên anh L. có dùng tay đẩy ông N. về thì xẩy ra xô sát.
Lời khai người làm chứng ông Hà Đăng Th. có trong hồ sơ thể hiện: Chiều ngày 07/3/2022 ông Phạm Văn N. bị anh Dương Đức Long đánh gây thương tích tại gia đình nhà ông T. là có thực. Do gia đình ông có nghề thuốc nam gia truyền và ông có tham gia học lớp bồi dưỡng kiến thức cơ bản về Đông y, châm cứu, bấm huyệt nên sau khi bị đánh ông N. có nhờ ông mua hộ thuốc chăm sóc sức khỏe gồm các loại thuốc về nâng cao sức khỏe, tan máu. Cụ thể những loại thuốc gì, giá thành bao nhiêu ông không nhớ vì là nhờ mua hộ nên không có giấy tờ giao nhận gì. Cách đây khoảng 1 tháng ông N. có đưa cho ông 01 tờ giấy trên có viết nội dung ông mua thuốc hộ cho ông N. và bảo ông ký xác nhận. Ông có được mua thuốc hộ nên đã ký nhận là có được mua thuốc hộ cho ông N., còn mua thuốc gì, bao nhiêu tiền thì ông không biết. Ngoài ra ông có được lấy lá cây làm thuốc nam cho ông N. bôi đắp để chữa hoa mắt, chóng mặt, tức ngực … do ông N. bảo thì ông mới lấy thuốc cho vì thuốc nam này là thuốc gia truyền của gia đình, ông không mở cửa hàng nên không được cấp phép hoạt động, ai biết đến bảo thì ông mới lấy thuốc. Ông cũng không tham gia hội thuốc đông y nào.
* Kết quả xác minh thể hiện: khoảng 17 giờ 00 phút ngày 07/3/2022 tại gia đình ông Dương Đức T. thuộc tổ dân phố B, thị trấn S., huyện S, tỉnh Tuyên Quang có xẩy ra xô sát giữa ông Phạm Văn N. với anh Dương Thế L. là thực tế. Sau khi bị đánh ông N. có báo Công an thị trấn S., huyện S. giải quyết. Quá trình giải quyết tin báo tội phạm, công an thị trấn S. đã lập hồ sơ giải quyết vụ việc như: Tiến hành xác minh hiện trường; khám xét dấu vết trên thân thể ông N.; báo gọi các bên liên quan đến trụ sở lấy lời khai, giải quyết; ra Quyết định trưng cầu giám định tổn hại phần trăm sức khỏe đối với ông N.; lập biên bản vi phạm hành chính và đề nghị xử lý vi phạm hành chính theo quy định; thu thập các tài liệu, chứng cứ khác ...
Quá trình giải quyết và tại phiên tòa các bên đương sự cùng có quan điểm đề nghị Tòa án căn cứ các tài liệu chứng cứ do Công an thị trấn S. lập khi giải quyết tin báo tội phạm làm tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án. Ngày 13/5/2022 TAND huyện Sơn Dương nhận được toàn bộ hồ sơ do Công an thị trấn S. sao gửi theo yêu cầu của Tòa án. Do vậy, HĐXX căn cứ vào các tài liệu chứng cứ này để giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và việc chấp hành pháp luật của các đương sự đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 26, 35, 39, 147, 228, 235, 227, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 590 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án tuyên xử: chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc anh Dương Thế L. có trách nhiệm bồi thường thiệt hại sức khỏe cho ông Phạm Văn N. tổng số tiền là 1.575.000 đồng (một triệu năm trăm bẩy mươi lăm nghìn đồng).
Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết về án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng và quan hệ pháp luật:
Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn ông Phạm Văn N. yêu cầu anh Dương Thế L. và Dương Văn G. có trách nhiệm bồi thường thiệt hại sức khỏe cho ông 30.000.000 đồng, bồi thường danh dự nhân phẩm cho ông 20.000.000 đồng, tổng cộng 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng). Anh Dương Thế L. có địa chỉ tại Tổ dân phố B, thị trấn S., huyện S, tỉnh Tuyên Quang, anh Dương Văn G. có địa chỉ tại Tổ 2, thị trấn M, huyện V, tỉnh Hà Giang. Vụ việc xẩy ra tại gia đình ông Dương Đức T. thuộc Tổ dân phố B, thị trấn S., huyện S. và được Công an thị trấn S., huyện S. thụ lý giải quyết tin báo ban đầu. Do vậy, quan hệ pháp luật ở đây được xác định là “Yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang quy định tại Điều 26, 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, bị đơn anh Dương Thế L., anh Dương Văn G. vắng mặt và đã có đơn xin xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn sự theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về yêu cầu khởi kiện:
2.1. Về yêu cầu bồi thường thiệt hại sức khỏe:
Tại biên bản xử lý vi phạm hành chính số 26/BB-VPHC ngày 08/3/2022 do Công an thị trấn S. lập thể hiện anh Dương Thế L. có hành vi dùng tay tát nhiều nhát vào người ông Phạm Văn N.. Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể do Công an thị trấn và Trạm y tế thị trấn S. lập hồi 11 giờ 05 phút ngày 08/3/2022 thể hiện ông N. có thương tích: Vết bầm tím vùng hạ sườn phải dài 05cm, rộng 02cm; vết bầm vùng ức trái dài 03cm, rộng 02cm; vết xước nông dài 01cm không chảy máu vùng ngực trái; vùng môi dưới có vết dập nông khoảng 3cm.
Tại báo cáo đề xuất ngày 23/3/2022 của Công an thị trấn S. thể hiện không đủ căn cứ chứng minh anh Dương Văn G. có hành vi đánh ông Phạm Văn N. nên không đề xuất xử lý đối với anh G..
Căn cứ các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sợ vụ án và lời trình bầy của các đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 07/3/2022 tại gia đình ông Dương Đức T. thuộc tổ dân phố B, thị trấn S., huyện S, tỉnh Tuyên Quang, anh Dương Thế L. có hành vi dùng tay đánh ông Phạm Văn N. gây thương tích. Anh Dương Văn G. không có hành vi đánh, gây thương tích cho ông N..
Như vậy, có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện, buộc anh Dương Thế L. có trách nhiệm bồi thường thiệt hại sức khỏe cho ông Phạm Văn N.. Bác yêu cầu khởi kiện về việc buộc anh Dương Văn G. có trách nhiệm bồi thường thiệt hại sức khỏe cho ông Phạm Văn N..
2.2. Về yêu cầu bồi thường danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm:
Quá trình giải quyết và tại phiên tòa ông N. yêu cầu anh Dương Văn G. anh Dương Thế L. có trách nhiệm bồi thường danh dự, nhân phẩm cho ông số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) vì ông bị anh L., anh G. đánh và người dân cười chê bảo ông vào nhà ông T. trộm cắp nên mới bị đánh. Theo lời khai của các bên đương sự thể hiện khi ông N. đến nhà ông Dương Đức T., anh L. và anh G. có đuổi ông N. về dẫn đến 2 bên xẩy ra xô sát, sau khi ông N. bị anh L. đánh thì sự việc chấm dứt. Do vậy không có việc anh L., anh G. có hành vi dùng lời lẽ thô tục nhục mạ nhằm hạ uy tín, danh dự của ông N.. Quá trình giải quyết và tại phiên tòa ông N. không cung cấp được chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm của ông bị xâm hại do hành vi gây thương tích của anh L. gây ra nên không có căn cứ xem xét, cần bác yêu cầu khởi kiện về vấn đề này.
[3]. Về mức bồi thường cụ thể:
Quá trình giải quyết và tại phiên tòa ông Phạm Văn N. có quan điểm yêu cầu anh Dương Thế L. và anh Dương Văn G. cùng có trách nhiệm bồi thường thương tích cho ông số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) mà không đưa ra được các khoản chi phí cụ thể đã chi. Quá trình giải quyết anh L., anh G. có quan điểm không đồng ý bồi thường, không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông N..
Theo quy định tại Điều 590 Bộ luật Dân sự và hướng dẫn tại phần II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng 1 số quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm thì các khoản tiền được pháp luật công nhận gồm: “Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe; thu nhập thực tế bị mất, giảm sút của người bị thiệt hại và thu nhập thực tế bị mất, giảm sút của người chăm sóc người bị thiệt hại (nếu có). Ngoài ra, người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khoẻ của người khác bị xâm phạm phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu …”. Xét yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn N. thấy rằng:
- Về khoản tiền chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe: Do ông N. có kết quả xét nghiệm dương tính với vi rút corona nên không vào bệnh viện điều trị, căn cứ kết quả xác minh tại Trung tâm y tế huyện Sơn Dương, biên bản xem xét dấu vết trên thân thể, xác nhận của người bán thuốc có cơ sở chấp nhận khoản tiền ông N. đã chi mua thuốc về điều trị thương tích gồm:
Thuốc Penicillin 02 vỉ x 10.000 đồng/vỉ = 20.000 đồng Thuốc Medrol 16mg 01 vỉ x 45.000 đồng/vỉ = 45.000 đồng Thuốc Ampicillin 02 vỉ x 10.000 đồng/vỉ = 20.000 đồng Tổng cộng: 85.000 đồng (tám mươi lăm nghìn đồng).
- Về khoản tiền do thu nhập thực tế bị mất, giảm sút của người bị thiệt hại và thu nhập thực tế bị mất, giảm sút của người chăm sóc người bị thiệt hại (nếu có): Tại buổi làm việc ngày 04/8/2022 ông Phạm Văn N. xác định: “Ông là cán bộ nghỉ chế độ hưởng lương mất sức do Bảo hiểm xã hội huyện Sơn Dương chi trả hàng tháng là 2.702.000 đồng/ tháng. Ngày 7/3/2022 ông bị đánh không đi điều trị tại bệnh viện, lương hàng tháng vẫn được bảo hiểm chi trả”. Căn cứ kết quả xác minh tại Trung tâm y tế huyện Sơn Dương, biên bản xem xét dấu vết trên thân thể do Công an thị trấn S. lập thì ông N. bị thương tích phần mềm, điều trị thương tích ở tại nhà nên không cần người chăm sóc. Do vậy, thu nhập thực tế của ông N. không bị mất, bị giảm sút, không có người chăm sóc. Căn cứ quy định tại điểm c, b khoản 1 Điều 590 Bộ luật Dân sự thì HĐXX không xem xét đối với khoản tiền này.
- Về khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần: Trong vụ án này ông Phạm Văn N. bị anh Dương Thế L. đánh gây thương tích là thực tế, do ông N. không đi giám định tổn hại phần trăm sức khỏe nên không có căn cứ xác định tỷ lệ thương tích. Việc anh L. có hành vi đánh ông N. có phần ảnh hưởng đến tinh thần cho ông N. nên anh L. phải bồi thường cho ông N. một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần mà ông N. phải gánh chịu tương đương 01 tháng lương cơ bản do nhà nước quy định là 1.490.000 đồng (một triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng) là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 590 Bộ luật Dân sự.
- Về khoản tiền mua thuốc tan máu, nâng cao sức khỏe và khoản tiền lấy thuốc nam điều trị hoa mắt, chóng mặt, tức ngưc: Căn cứ lời khai của ông Hà Đăng Th. và tài liệu chứng cứ do ông Th. cung cấp thể hiện ông Th. hành nghề thuốc nam không có giấy phép hoạt động, chỉ có giấy chứng nhận tham gia học lớp bồi dưỡng kiến thức cơ bản về Đông y, châm cứu, bấm huyệt. Việc ông Th. lấy thuốc nam cho ông N. điều trị hoa mắt, chóng mặt, tức ngực và mua hộ thuốc tan máu, thuốc nâng cao sức khỏe theo giấy biên nhận ông N. giao nộp cho Tòa án có chữ ký của ông Th. là do ông N. nhờ ông Th., không có chỉ định của bác sỹ, không có hóa đơn chứng từ chứng minh nên đây được coi là các khoản chi phí không hợp lý. Do vậy, Hội đồng xét xử không có căn cứ xem xét.
* Từ nhận định trên, có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn N. buộc anh Dương Thế L. có trách nhiệm bồi thường thiệt hại sức khỏe cho ông N. khoản tiền chi phí cho việc điều trị thương tích 85.000 đồng và khoản tiền bù đắp về tổn thất tinh thần 1.490.000 đồng, tổng cộng 1.575.000 đồng (một triệu năm trăm bẩy mươi lăm nghìn đồng). Bác yêu cầu khởi kiện của của ông N. về yêu cầu bồi thường danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm.
[4]. Về các vấn đề khác.
Quá trình giải quyết tin báo tại Công an thị trấn S., huyện S, Công an thị trấn đã có Quyết định trưng cầu giám định đối với ông Phạm Văn N. nhưng ông N. có đơn từ chối không đi giám định thương tích. Tại Công an thị trấn ông N. cũng đã có đơn không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Việc ông N. viết đơn đề nghị là tự nguyện và không trái pháp luật. Quá trình giải quyết ông N. có quan điểm không đề nghị Tòa án Trưng cầu giám định thương tích đối với ông nên Tòa án không xem xét.
Tại phiên Tòa ông N. đề nghị Tòa án buộc anh L. đưa tiền cho ông để ông đi giám định sức khỏe. Theo quy định tại điểm b khoản 3, khoản 4 Điều 22 Luật giám định tư pháp quy định về nghĩa vụ của người yêu cầu giám định thể hiện: “3. … b) Nộp tạm ứng chi phí giám định tư pháp khi yêu cầu giám định; thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định khi nhận kết luận giám định. 4. Người yêu cầu giám định chỉ được thực hiện quyền tự yêu cầu giám định trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm”. Do vậy, Hội đồng xét xử không có căn cứ xem xét.
Ngày 07/3/2022 anh Dương Thế L. có hành vi đánh gây thương tích cho ông Phạm Văn N., hành vi của anh L. đã bị Công an huyện Sơn Dương ra Quyết định số 150/QĐ-XPVPHC ngày 23/3/2022 về việc xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 5.000.000 đồng đối với anh L..
Về yêu cầu của ông N. đề nghị Tòa án xem xét kiến nghị Cơ quan có thẩm quyền điều chuyển anh Dương Văn G. sang làm công việc khác, không được cho anh G. làm giáo viên và đứng lớp. Quá trình giải quyết và tại phiên tòa xác định được anh G. không có hành vi đánh ông N., việc ông N. yêu cầu không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Do vậy, HĐXX không xem xét đối với các vấn đề trên. [5]. Về án phí và quyền kháng cáo:
Do chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên bị đơn anh Dương Thế L. phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).
Do bác một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên ông Phạm Văn N. phải chịu án phí của phần bị bác. Phần bị bác là khởi kiện về yêu cầu bồi thường thiệt hại sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, ông N. là người cao tuổi nên được miễn nộp khoản tiền án phí theo quy định tại điểm d, đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016QH ngày 30/12/2016 của Quốc Hội.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Các Điều 26, 35, 147, 228, 235, 266, 227, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 584, 585, 586, 590, 357 của Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn N.: Buộc anh Dương Thế L. có trách nhiệm bồi thường thiệt hại sức khỏe cho ông Phạm Văn N. tổng số tiền là 1.575.000 đồng (một triệu năm trăm bẩy mươi lăm nghìn đồng).
Kể từ khi ông N. có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh L. chậm bồi thường thì anh L. phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm nộp tương ứng với thời gian chậm nộp. Lãi suất phát sinh do chậm nộp tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn N. về yêu cầu buộc anh Dương Thế L. và anh Dương Văn G. có trách nhiệm bồi thường danh dự nhân phẩm cho ông Phạm Văn N. và yêu cầu buộc anh Dương Văn G. có trách nhiệm bồi thường thiệt hại sức khỏe cho ông Phạm Văn N..
3. Về án phí:
Anh Dương Thế L. phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án dân sự sơ thẩm.
Ông Phạm Văn N. không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm đối phần yêu cầu khởi kiện bị bác.
4. Về quyền kháng cáo: ông N. được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Gang, anh L. được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 09/2022/DS-ST về yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Số hiệu: | 09/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 08/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về