TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 78/2023/DS-ST NGÀY 27/06/2023 VỀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SÚC VẬT GÂY RA
Ngày 27 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 320/2022/TLST-DS ngày 17 tháng 10 năm 2022 về việc “Yêu cầu bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2023/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Châu Thị Ngọc T, sinh năm 1986 Địa chỉ: Ấp N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bà T là ông Đỗ Hiệp P, sinh năm 1995.
Địa chỉ: Ấp B, xã B, thành phố B, tỉnh Bến Tre và ông Nguyễn Minh B, sinh năm 1981, địa chỉ: Ấp K, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre theo văn bản ủy quyền ngày 01/11/2022.
2. Bị đơn: Bà Trần Thị L, sinh năm 1992 Địa chỉ: Ấp N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của bà L là bà Lê Thị Yến N, sinh năm 1990.
Địa chỉ: Ấp G, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre theo văn bản ủy quyền ngày 25/10/2022.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Cháu Dương Châu Ngọc H, sinh năm 2013.
Địa chỉ: Ấp N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo pháp luật của cháu H là bà Châu Thị Ngọc T, sinh năm 1986. Địa chỉ: Ấp N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Ông P có mặt. Ông B vắng mặt. Bà N, Bà T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền nguyên đơn bà Châu Thị Ngọc T là ông Đỗ Hiệp P trình bày:
Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 20/12/2021, bà T chở con là cháu Dương Châu Ngọc H trên xe đi ngang nhà của bà Trần Thị L, lúc này chó của bà L từ trong nhà chạy ra rượt theo xe của bà T cắn vào chân phải của cháu H. Gia đình bà T phải đưa cháu H đi tiêm phòng bệnh dại. Từ ngày cháu H bị chó bà L cắn đến nay gia đình bà L không đến hỏi thăm trình trạng sức khỏe của cháu H, cũng không thực hiện bồi thường tiền thuốc. Ngoài cháu H, chó của bà L còn cắn rất nhiều người khác trong xóm và có dấu hiệu là cho dại.
Ngày 21/02/2022, bà T có nộp đơn đến trưởng ấp N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre để yêu cầu hòa giải về việc chó bà L cắn cháu H. Ngày 01/3/2022, tổ hòa giải mời hai bên đến hòa giải. Tại buổi hòa giải, bà T yêu cầu bà L bồi thường thiệt hại vật chất và tinh thần cho cháu H với số tiền là 25.000.000 đồng. Đồng thời, yêu cầu bà L có biện pháp quản lý chó nhà mình chặt chẽ không được thả rong nhưng phía bà L không đồng ý. Ngày 04/3/2022, tổ hòa giải ấp N, thị trấn G có đơn đề nghị chuyển hồ sơ đến Ủy ban nhân dân thị trấn G tiếp tục hòa giải. Ngày 14/4/2022, Ủy ban nhân dân thị trấn G mời hòa giải nhưng bà L không đến tham dự. Do không hòa giải được, ngày 25/4/2022, Ủy ban nhân dân thị trấn G chuyển hồ sơ tranh chấp của bà T đến Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm để giải quyết theo quy định của pháp luật.
Nay bà T, yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Trần Thị L có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do chó của bà L cắn cháu H gây ra, gồm các khoản cụ thể như sau:
- Chi phí tiêm phòng bệnh dại là 245.000 đồng/lần tiêm x 05 lần = 1.225.000 đồng.
- Tiền thuê xe đi tiêm phòng bệnh dại là 05 lượt x 1.200.000 đồng/lượt đi, về = 6.000.000 đồng.
- Tiền mất thu nhập do phải nghỉ việc đưa cháu H đi chích ngừa 05 ngày x 200.000 đồng/ngày = 1.000.000 đồng.
- Tiền mua thuốc bổ, thực phẩm để phục hồi sức khỏe cho cháu H với số tiền là 1.775.000 đồng.
- Tiền bồi thường tổn thất tinh thần là 15.000.000 đồng. Tồng cộng là 25.000.000 đồng.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Trần Thị L là bà Lê Thị Yến N có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nhưng tại bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án bà trình bày:
Bà T trình bày vào ngày 20/12/2021, khi bà T chở cháu H đi ngang nhà bà L bị con chó của bà L chạy từ nhà ra rượt theo cắn vào chân phải của cháu H nên bà T có nộp đơn đến Tổ hòa giải của ấp để yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho cháu H với số tiền tổng cộng là 25.000.000 đồng. Khi xảy ra sự việc bà L không có ở nhà, bà L không trực tiếp chứng kiến việc cháu H bị chó cắn và có phải là do chó của bà L nuôi cắn cháu H hay không. Ở khu vực xung quanh nhà bà L có rất nhiều gia đình đều nuôi chó nên việc bà T khẳng định cháu H bị chó của bà L cắn là không có cơ sở, chỉ là lời nói một phía của bà T. Do đó, bà L chỉ đồng ý hỗ trợ tiền thuốc tiêm ngừa với số tiền là 1.225.000 đồng, không đồng ý bồi thường tiền tổn thất tinh thần, các khoản còn lại bà L yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.
Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký: Thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71, 72, 73 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Châu Thị Ngọc T về việc yêu cầu bà Trần Thị L có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra. Buộc bà Trần Thị L có trách nhiệm bồi thường cho cháu Dương Châu Ngọc H số tiền là 5.715.000 đồng. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà T về việc yêu cầu bà Trần Thị L có trách nhiệm bồi thường cho cháu Dương Châu Ngọc H số tiền 19.285.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; ý kiến của đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Châu Thị Ngọc T là người đại diện theo pháp luật của cháu Dương Châu Ngọc H khởi kiện yêu cầu bà Trần Thị L, địa chỉ: ấp N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra là vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại khoản 6 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung: Bà Châu Thị Ngọc T yêu cầu bà Trần Thị L bồi thường thiệt hại do súc vật gây cho cháu Dương Châu Ngọc H với số tiền tổng cộng là 25.000.000 đồng. Theo đó, bà T cho rằng khi bà chở cháu H đi ngang nhà bà L, con chó của bà L chạy ra đuổi theo cắn vào chân phải của cháu H. Việc bà L nuôi chó nhưng không có biện pháp bảo đảm an toàn dẫn đến chó của bà L cắn cháu H gây thương tích nên bà L phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho cháu H (do bà T đại diện) số tiền nêu trên. Còn bị đơn bà L cho rằng không có căn cứ để xác định con chó cắn cháu H là chó của bà L nuôi nên bà L chỉ đồng ý hỗ trợ tiền thuốc là 1.225.000 đồng, không đồng ý bồi thường tiền tổn thất tinh thần, các khoản còn lại bà L yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.
[2.1] Xét thấy, tại biên bản họp tổ hòa giải ấp 5A ngày 01/3/2022 bà L có ý kiến: “Bà có nhờ người đến xin lỗi và chịu chi phí đưa cháu Dương Châu Ngọc H đi chích ngừa nhưng bà T không đồng ý, con chó đã chích ngừa đầy đủ”. Việc bà L nhờ người đến xin lỗi và chịu chí phí đưa cháu H đi chích ngừa đã chứng tỏ bà L đã thừa nhận con chó cắn cháu H là chó của bà L nuôi. Tại khoản 1 Điều 603 của Bộ luật Dân sự quy định “Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác...”. Và tại Điều 590 của Bộ luật Dân sự quy định “1. Thiệt hại do sức khỏa bị xâm phạm bao gồm: a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm súc của người bị thiệt hại; b) Thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và có thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại. 2) Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó phải gánh chịu...”. Theo quy định trên, bà L là người nuôi chó nhưng không có biện pháp đảm bảo an toàn dẫn đến chó của bà L cắn cháu H, gây thiệt hại là xâm phạm đến sức khỏe của cháu H nên bà T (đại diện theo pháp luật của cháu H) khởi kiện yêu cầu bà L bồi thường thiệt hại là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật. Các khoản bồi thường theo yêu cầu khởi kiện của bà T được xác định cụ thể như sau:
[2.2] Về chi phí tiêm phòng bệnh dại là 1.225.000 đồng. Chứng cứ bà T cung cấp là phiếu tiêm phòng bệnh dại và các biên nhận thu tiền thể hiện cháu H tiêm phòng 05 lần với chi phí tổng cộng 245.000 đồng/lần x 05 lần = 1.225.000 đồng. Các lần tiêm phòng được bác sĩ chỉ định, có chứng từ rõ ràng nên đây được xác định là chi phí điều trị hợp lý của cháu H. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án bà L cũng đồng ý bồi thường số tiền này cho cháu H. Do đó, bà T yêu cầu bà L có trách nhiệm bồi thường số tiền thuốc tiêm phòng bệnh dại nêu trên là có căn cứ được chấp nhận.
[2.3] Về chi phí thuê phương tiện đưa cháu H đi tiêm phòng: Bà T cho rằng sau khi cháu H bị chó bà L cắn bà đã thuê phương tiện là xe ô tô chở cháu H đi tiêm phòng tại Viện Pasteur Thành phố H 05 lần (đi và về) với số tiền 05 lần x 1.200.000 đồng/lần = 6.000.000 đồng. Đều này phù hợp với xác nhận của ông Nguyễn Đăng V là chủ sở hữu phương tiện chở cháu H đi tiêm phòng. Các lần đi tiêm phòng của cháu H đều theo sự chỉ định của Bác sĩ điều trị. Tuy nhiên, tại Văn bản số 755/KSBT-PK ngày 08/5/2023 của Trung tâm kiểm soát bệnh tật B cho biết trong khoảng thời gian từ ngày 20/12/2021 đến ngày 31/01/2022 hoạt động tiêm chủng tại phòng tiêm ngừa thuộc Trung tâm kiểm soát bệnh tật B vẫn diễn ra bình thường (có thực hiện tiêm ngừa phòng bệnh dại). Bà T không cung cấp được chứng cứ chứng minh có sự chỉ định của bác sĩ phải đến viện Viện Pasteur Thành phố H tiêm ngừa. Như vậy, việc bà T thuê phương tiện đi tiêm phòng cho cháu H tại Viện Pasteur nhưng không có sự chỉ định của bác sĩ là không phù hợp nên chi phí này không hợp lý. Tại Biên bản làm việc ngày 14/3/2023, ông Nguyễn Đăng V cho biết với loại xe tương tự vào cùng thời điểm trên thì giá thuê xe từ thị trấn G đến trung tâm thành phố B là 400.000đồng/lượt đi và về. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng mức chi phí này để tính chi phí thuê phương tiện đi tiêm phòng cho cháu H là phù hợp. Vì vậy, bà T yêu cầu bà L bồi thường tiền chi phí thuê phương tiện đưa cháu H đi tiêm phòng chỉ được chấp nhận một phần. Buộc bà T bồi thường tiền thuê xe cho cháu H đi tiêm phòng bệnh dại với số tiền là 05 lần x 400.000 đồng/lần đi, về = 2.000.000 đồng.
[2.4] Đối với tiền mất thu nhập trong thời gian nghỉ việc đưa cháu H đi tiêm phòng là 05 ngày x 200.000 đồng/ngày = 1.000.000 đồng. Xét thấy, bà T không có việc làm ổn định nên không có thu nhập ổn định từ tiền lương hàng tháng. Qua tham khảo mức thu nhập bình quân lao động tự do đối với nữ do Ủy ban nhân dân thị trấn G cung cấp là 200.000 đồng/ngày. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng mức thu nhập này để làm căn cứ tính thu nhập bị mất trong thời gian bà T nghỉ việc đưa cháu H đi tiêm phòng là phù hợp. Buộc bà L có trách nhiệm bồi thường tiền mất thu nhập cho bà T với số tiền 05 ngày x 200.000 đồng/ngày = 1.000.000 đồng.
[2.5] Đối với mua thuốc bổ, thực phẩm để bồi dưỡng phục hồi sức khỏe là 1.775.000 đồng. Thấy rằng, hồ sơ không thể hiện bác sĩ có chỉ định cháu H phải uống thuốc bổ, ăn thực phẩm dinh dưỡng để phục hồi sức khỏe. Bà T yêu cầu nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên không chấp nhận.
[2.6] Đối với tiền tổn thất tinh thần 15.000.000 đồng. Bà T cho rằng sau khi bị chó căn, cháu H thường xuyên hoãn loạn, tinh thần bị ảnh hưởng nhiều. Xét thấy, bà T không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cháu H có tổn thất về tinh thần do chó của bà L cắn gây ra. Việc cháu H bị chó bà L cắn cũng không ảnh hưởng đến thẩm mỹ và giao tiếp xã hội của cháu H. Tuy nhiên, cháu H còn nhỏ, việc cháu H bị có cắn ít nhiều đã ảnh hưởng đến tâm lý của cháu. Dó đó, Hội đồng xét xử xem xét buộc bà L bồi thường tiền tổn thất tinh thần cho cháu H tương đương với 01 tháng lương tối thiểu với số tiền là 1.490.000 đồng là phù hợp Như phân tích nêu trên thì yêu cầu khởi kiện của bà T là có căn cứ được chấp nhận một phần. Buộc bà L có trách nhiệm bồi thường cho cháu H số tiền tổng cộng là 5.715.000 đồng. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T về yêu cầu bồi thường tiền mua thuốc bổ, thực phẩm để bồi dưỡng phục hồi sức khỏe; Một phần tiền tổn thất tinh thần; Một phần tiền chi phí thuê phương tiện với số tiền là 19.285.000 đồng.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của bà T được chấp nhận một phần nên bà L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật đối với phần yêu cầu của bà T được chấp nhận là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
Bà Châu Thị Ngọc T phải chịu án phí đối với phần yêu cầu không được chấp nhận. Tuy nhiên, bà T là người có yêu cầu bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra nên được miễn nộp toàn bộ án phí theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[4] Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, 271, 273, 278, 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Các Điều 584, 585, 586, 590, 603 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Châu Thị Ngọc T về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra đối với bà Trần Thị L.
Buộc bà Trần Thị L có trách nhiệm bồi thường cho cháu Dương Châu Ngọc H (do bà T là người đại diện theo pháp luật) số tiền tổng cộng là 5.715.000đ (Năm triệu bảy trăm mười lăm nghìn đồng). Trong đó tiền bồi thường chi phí tiêm phòng là 1.225.000 đồng; Chi phí thuê xe đi tiêm phòng là 2.000.000 đồng; Tiền mất thu nhập do phải nghỉ việc là 1.000.000 đồng; Tiền tổn thất tinh thần là 1.490.000 đồng.
Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Không chấp nhận yêu cầu của bà Châu Thị Ngọc T về việc yêu cầu bà Trần Thị L có trách nhiệm bồi thường cho cháu Dương Châu Ngọc H số tiền 19.285.000đ (Mười chín triệu hai trăm tám mươi lăm nghìn đồng).
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Châu Thị Ngọc T được miễn nộp án phí.
- Bà Trần Thị L phải chịu số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
Quyền kháng cáo, kháng nghị: Các đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được thông báo, niêm yết.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 78/2023/DS-ST về yêu cầu bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
Số hiệu: | 78/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/06/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về