TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 77/2024/LĐ-ST NGÀY 27/06/2024 VỀ VÔ HIỆU HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÀ HỦY SỔ BẢO HIỂM XÃ HỘI
Ngày 27 tháng 6 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 67/2024/TLST - LĐ ngày 26 tháng 03 năm 2024 về việc “Tranh chấp vô hiệu hợp đồng lao động và hủy sổ bảo hiểm xã hội” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2024/QĐXXST - LĐ ngày 20 tháng 5 năm 2024; Quyết định hoãn phiên Tòa số 40/2024/QĐST-LĐ ngày 10 tháng 6 năm 2024 giữa:
Nguyên đơn: Bà NEANG C, sinh năm 1985.
Địa chỉ: Ấp T, xã V, huyện T, tỉnh A.
Tạm trú: 45I/11 khu phố B, phường B, thành phố Th, tỉnh B.
Bị đơn: Công ty Cổ phần Sợi Q. .
Địa chỉ: Cụm công nghiệp H, ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh L.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Việt D.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà SOEURN K, sinh năm 1995.
Địa chỉ: L, xã Phnom D, huyện K, T.
Tạm trú: 45I khu phố B, phường B, thành phố Th, tỉnh B.
(Các đương sự đều xin vắng mặt; Công ty vắng mặt không rõ lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 18 tháng 03 năm 2024 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà NEANG C trình bày:
Từ tháng 03/2014 đến nay, bà vào làm công nhân tại Công ty Cổ phần Đầu tư Thái B. Trong quá trình làm việc tại công ty này, bà có tham gia bảo hiểm với số sổ 74141285xx.
Do bản thân không am hiểu về pháp luật và muốn giúp đỡ bà SOEURN K (do bà SOEURN K mất giấy chứng minh nhân dân) có thể đi làm tạo thu nhập lo cho gia đình nên bà cho bà SOEURN K mượn giấy CMND để bà SOEURN K đi làm tại Công ty Cổ phần Sợi Q tại Cụm công nghiệp H thuộc ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh L trong khoảng thời gian từ tháng 03/2014 đến tháng 4/2016. Khi bà SOEURN K mang tên bà là NEANG C làm việc tại công ty cổ phần sợi Q thì bà SOEURN K tham gia bảo hiểm trùng với số sổ bảo hiểm 801440033xx. Việc bà cho bà SOEURN K mượn CMND là không đúng quy định pháp luật và người thực hiện hợp đồng lao động với công ty cổ phần sợi Q không phải do bản thân bà thực hiện. Hiện nay tồn tại hai số sổ bảo hiểm là 74141285xx và 801440033xx cùng mang tên NEANG C nên bà không thể thực hiện việc chốt sổ bảo hiểm được.
Do đó bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
1/ Vô hiệu hợp đồng lao động được kí kết giữa bà NEANG C (do bà SOEURN K làm việc) với công ty cổ phần nhực Q từ tháng 03/2014 đến tháng 4/2016.
2/ Điều chỉnh lại tên NEANG C trên sổ bảo hiểm số 80140033xx thành tên SOEURN K.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng bị đơn là Công ty Cổ phần Sợi Q vẫn vắng mặt không có lý do, cũng không có bất cứ văn bản nào phản hồi ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà SOEURN K có văn bản trình bày: Từ tháng 03/2014 đến tháng 04/2016, bà có mượn giấy chứng minh nhân dân của bà NEANG C để đi làm tại Công ty cổ phần sợi Q và có tham gia bảo hiểm xã hội vào số sổ 80140033xx. Nay bà đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đồng thời, bà không có yêu cầu về số tiền bảo hiểm đã đóng.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Bảo hiểm xã hội tỉnh L trình bày: Căn cứ vào hồ sơ, dữ liệu quản lý thu, sổ, thẻ và chính sách BHXH, bảo hiểm y tế, BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, Bảo hiểm xã hội tỉnh L xác định Công ty cổ phần sợi Đông Q có tham gia bảo hiểm cho bà NEANG C trong tháng 03/2014 đến tháng 04/2016 với số sổ bảo hiểm 80140033xx.
Đối với trường hợp người lao động mượn hồ sơ của người khác để đi làm việc và tham gia BHXH là hành vi vi phạm nguyên tắc “trung thực” theo qui định tại khoản 1 Điều 15 của Bộ Luật Lao động và nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Bộ luật Lao động nên trường hợp này hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ; thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Quan điểm kiểm sát viên tại phiên tòa:
Về tố tụng: Việc thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Về trình tự thủ tục đảm bảo theo quy định của tố tụng trong việc thu thập chứng cứ, xác minh. Toà án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ và quyền hạn. Các bên đương sự thực hiện đúng tố tụng về quyền và nghĩa vụ.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà NEANG C về việc vô hiệu hợp đồng lao động giữa bà NEANG C (do bà SOEURN K thực hiện) với Công ty cổ phần sợi Q từ tháng 03/2014 đến tháng 4/2016; Điều chỉnh lại tên NEANG C trên sổ bảo hiểm số 80140033xx thành tên SOEURN K.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật cần giải quyết: Xét yêu cầu khởi kiện của bà NEANG C nêu trên, Hội đồng xét xử thấy quan hệ pháp luật cần giải quyết trong vụ án là: “Tranh chấp vô hiệu hợp đồng lao động và hủy sổ bảo hiểm xã hội” vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự. Công ty Cổ phần Sợi Q có trụ sở tại ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh L nên Tòa án nhân dân huyện Đ thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về tư cách tố tụng, thời hiệu và phạm vi giải quyết.
Bà NEANG C là người khởi kiện, được xác định là nguyên đơn, Công ty Cổ phần Sợi Q là người bị kiện được xác định tư cách là bị đơn. Bà SOEURN K và BHXH tỉnh L được xác định là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Thời hiệu khởi kiện: Bà NEANG C khởi kiện Công ty Cổ phần Sợi Q vì cho rằng quyền lợi bị xâm phạm do hợp đồng giả tạo là còn trong thời hiệu khởi kiện; Bà NEANG C có quyền khởi kiện theo quy định Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.3] Chứng cứ, nghĩa vụ chứng minh và luật áp dụng.
Quá trình tố tụng: Chứng cứ bà NEANG C có nộp sổ BHXH số 74141285xx và 80140033xx; Sổ bảo hiểm xã hội.
Tòa án xét xử trên cơ sở chứng cứ do người khởi kiện cung cấp và chứng cứ do Tòa án thu thập khi thấy cần thiết theo quy định tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Về chứng cứ chứng minh cho lời trình bày các đương sự Tòa án đã thu thập đầy đủ.
Thời điểm phát sinh tranh chấp Bộ luật lao động 2019 và Bộ luật tố tụng 2015 đang có hiệu lực pháp luật nên được áp dụng.
Tòa án lập biên bản về việc công khai chứng cứ, hòa giải và đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung. Tòa án xét xử trong phạm vi đương sự có yêu cầu. Các đương sự thừa nhận đã tiếp cận đầy đủ chứng cứ của nhau.
[2].Về nội dung:
Xét thấy, bà NEANG C có cho bà SOEURN K mượn chứng minh thư mang tên NEANG C để xác lập hợp đồng lao động và tham gia đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 03/2014 đến tháng 4/2016 tại Công ty Cổ phần Sợi Q. Trong khi đó, bà NEANG C cũng tham gia lao động tại công ty cổ phần đầu tư Thái B từ tháng 03/2014 đến nay theo số sổ bảo hiểm xã hội là 74141285xx. Nay bà NEANG C không được hưởng tiền bảo hiểm của chính mình là sổ BHXH số 74141285xx nên có yêu cầu Tòa án vô hiệu hợp đồng lao động giữa bà NEANG C (do bà Noeurn Kin) tại từ tháng 03/2014 đến tháng 4/2016 là có căn cứ. Bởi vì đối tượng lao động thực sự lao động trong giai đoạn này tại Công ty Cổ phần Sợi Q là bà SOEURN K không phải là bà NEANG C.
Việc bà NEANG C cho bà SOEURN K mượn giấy chứng minh nhân dân để đi làm tại Công ty Cổ phần nhựa Q là vi phạm nguyên tắc “trung thực” theo quy định tại khoản 1 Điều 15 của Bộ Luật Lao động, vi phạm các hành vi bị cấm như gian lận, giả mạo hồ sơ trong việc thực hiện BHXH, BHTN theo quy định tại khoản 4 Điều 17 của Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2014 do đó Sổ BHXH số 80140033xx cần điều chỉnh từ tên NEANG C thành tên SOEURN K là phù hợp thực tế.
Bà SOEURN K, Công ty Cổ phần Sợi Q không có tranh chấp gì trong vụ án này nên không đề cập xem xét.
[3].Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án: Ghi nhận sự tự nguyện của bà NEANG C tự nguyện chịu án phí lao động sơ thẩm thay cho Công ty Cổ phần Sợi Q nên Công ty Cổ phần Sợi Q không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 32, Điều 35, Điều 39, Điều 68 Điều 91, Điều 93, Điều 97, Điều 147, Điều 195, Điều 196, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 13, Điều 18, Điều 21 và Điều 49 Bộ luật lao động; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà NEANG C về việc: “Tranh hợp đồng lao động” với Công ty Cổ phần Sợi Q.
1.1. Vô hiệu hợp đồng lao động giữa bà NEANG C với Công ty Cổ phần Sợi Q từ tháng 03/2014 đến tháng 4/2016.
1.2. Điều chỉnh tên NEANG C trên sổ bảo hiểm số 80140033xx thành tên Souern K.
1.3 Bà NEANG C và bà SOEURN K được quyền liên hệ cơ quan BHXH tỉnh L để điều chỉnh thay đổi tên từ NEANG C trên sổ BHXH số 80140033xx thành tên SOEURN K.
2. Về án phí lao động sơ thẩm: Bà NEANG C tự nguyện nộp 300.000đồng án phí lao động sơ thẩm, sung vào công quỹ Nhà nước.
3. Án xét xử công khai sơ thẩm, các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ để xin xét xử phúc thẩm.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về vô hiệu hợp đồng lao động và hủy sổ bảo hiểm xã hội số 77/2024/LĐ-ST
Số hiệu: | 77/2024/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 27/06/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về