TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 11/08/2021 VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 11 tháng 08 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 36/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 06 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 06 năm 2021 đối với bị cáo:
Bùi Thị H, sinh ngày 02/6/1979 tại huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định; Nơi cư trú: Thôn TĐ 2, xã BH, huyện TS, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Quang H1, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1955; Chồng: Nguyễn Ngọc V, sinh năm 1975; Con: 03 người, lớn nhất 21 tuổi, nhỏ nhất 10 tuổi; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Ông Nguyễn Phúc H2, sinh năm 1972 (đã chết);
Người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Phúc H2: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1975; anh Nguyễn Phúc T1, sinh năm 1994; Anh Nguyễn Phúc K, sinh năm 1996; Chị Nguyễn Thị Ngọc K1, sinh năm 1992; Ông Nguyễn D; Bà Nguyễn Thị B.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1975 Địa chỉ: Xóm 3, thôn PH, xã TP, huyện TS, tỉnh Bình Định. (Có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Ngọc V, sinh năm 1975 Địa chỉ: Thôn TĐ 2, xã BH, huyện TS, tỉnh Bình Định. (Có mặt).
- Người làm chứng:
1- Ông Nguyễn Phúc C, sinh năm 1988 (Vắng mặt).
2- Ông Nguyễn Công T2, sinh năm 1962 (Vắng mặt).
3- Ông Hoàng Hữu T3, sinh năm 1949 (Có mặt).
4- Ông Phạm Việt T4, sinh năm 1982 (Vắng mặt) Cùng địa chỉ: Thôn PA, xã TX, huyện TS, tỉnh Bình Định.
5- Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1973 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn TĐ 2, xã BH, huyện TS, tỉnh Bình Định.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 11/07/2020, Bùi Thị H (sinh năm: 1979, ở Thôn TĐ 2, xã BH, huyện TS, tỉnh Bình Định), không có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe mô tô biển số 77X3-7136 của gia đình do chồng là anh Nguyễn Ngọc V – sinh năm 1975 đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, có dung tích xilanh 110cm3, chở chị Nguyễn Thị L (sinh năm 1973, ở cùng địa phương) đi từ nhà đến quán cà phê Nỗi Nhớ ở Phú An – Tây Xuân – Tây Sơn – Bình Định để xe mô tô ở đó, rồi mỗi người điều khiển xe đạp của mình đã để sẵn trong quán đi dạo tìm phế liệu để thu mua về bán lại cho chủ quán này. Khoảng 09 giờ cùng ngày, H điều khiển xe đạp đi dạo trên đường bê tông liên thôn từ QL19 vào cụm công nghiệp Phú An thuộc Phú An – Tây Xuân – Tây Sơn – Bình Định thì được một nhà dân gọi vào bán phế liệu. Do số lượng phế liệu nhiều nên H điều khiển xe đạp quay về quán cà phê Nỗi Nhớ điều khiển xe mô tô biển số 77X3-7136 quay lại nhà dân này để chở phế liệu. Khoảng 11 giờ cùng ngày, H điều khiển xe mô tô đi một mình trên đường bê tông liên xóm theo hướng từ đông sang tây, với vận tốc khoảng 30km/h và đi ở phần đường bên phải theo chiều đi của mình. Khi đến gần ngã ba giao nhau với đường bê tông liên thôn từ QL19 vào cụm công nghiệp Phú An, cách góc ngã ba phía nam khoảng 8,7m, H điều khiển xe mô tô đi qua phần đường bên trái theo chiều đi của mình để chuẩn bị sang đường. Khi đến góc phía nam của ngã ba, H dừng xe lại để quan sát. Lúc này, H ngồi trên yên xe, chân trái chống xuống đường, chân phải gác trên gác chân trước bên phải, xe mô tô của H ở vị trí, tư thế: đầu xe quay hướng nam, đuôi xe quay hướng đông bắc, trục bánh trước và trục bánh sau xe mô tô nằm trên lòng đường bê tông liên thôn (đường bê tông từ QL19 đi vào cụm công nghiệp Phú An) cách mép đường phía đông đường bê tông liên thôn lần lượt là 1,29m và 0,6m về hướng tây, cách góc phía nam ngã ba lần lượt là 2,13m và 0,84m về hướng tây nam, không có bật đèn tín hiệu báo cho người điều khiển phương tiện khác biết. H nhìn thấy ông Nguyễn Phúc H2 (sinh năm: 1972, ở Phú Hiệp – Tây Phú – Tây Sơn) đang điều khiển xe mô tô biển số 77S3-3044 đi trên đường bê tông liên thôn vào cụm công nghiệp Phú An, theo hướng từ nam sang bắc (tức từ trong cụm công nghiệp Phú An ra QL19), với vận tốc khoảng 40km/h, cách góc phía nam ngã ba khoảng 23,9m, cách xe mô tô của H khoảng 22,15m về hướng nam. Thấy vậy, H không có xử lý gì, chỉ la lên “Coi chớ tông chết người á” thì ngay lập tức xe mô tô 77S3-3044 do ông H2 điều khiển đến va chạm phần cánh yếm bên phải, gác chân trước bên phải vào phần bánh trước bên phải xe mô tô 77X3-7136 do H điều khiển, làm xe mô tô do ông H2 điều khiển chạy tới trước một đoạn rồi ngã qua bên trái xuống đường, xảy ra tai nạn giao thông. Hậu quả: Ông H2 bị thương được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định đến ngày 18/7/2020 thì tử vong do chấn thương gây vỡ sọ chảy máu nội sọ + đa chấn thương điều trị không hồi phục, xe mô tô 77S3-3044 bị hư hỏng, H và xe mô tô 77X3-7136 không bị ngã, không bị thương tích gì.
Dấu vết vụ tại nạn giao thông được mô tả tại biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra, sơ đồ thực nghiệm điều tra, biên bản khám nghiệm phương tiện, biên bản khám nghiệm tử thi và bản ảnh.
Vật chứng vụ án, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tây Sơn đã tạm giữ: xe mô tô nhãn hiệu Quick biển kiểm soát 77S3-3044 và xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 77X3-7136. Kết quả điều tra xác định xe mô tô 77S3-3044 do ông Trương T5 đứng tên sở hữu nhưng đã bán cho ông Nguyễn Phúc H2 nên thuộc quyền của vợ chồng ông H2, xe có giấy tờ hợp pháp nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô nêu trên cho bà Nguyễn Thị T. Xe mô tô 77X3-7136 đứng tên chủ sở hữu ông Nguyễn Ngọc V, xe có giấy tờ hợp pháp, ông V không liên quan nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô nêu trên cho ông Nguyễn Ngọc V.
Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 175/2020/PY-TT ngày 27/07/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Định kết luận: Nạn nhân Nguyễn Phúc H2 chết do:“Chấn thương gây vỡ sọ chảy máu nội sọ + đa chấn thương điều trị không hồi phục”. (BL: 73).
Quá trình điều tra, bị cáo H đã bồi thường cho gia đình nạn nhân số tiền 52.000.000 đồng. Đại diện gia đình nạn nhân đã có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không yêu cầu bồi thường thêm.
Tại Bản cáo trạng số 21/CT – VKSTS ngày 14/06/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn đã truy tố bị cáo Bùi Thị H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a Khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn đề nghị: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, 54 và Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Bùi Thị H từ 30 đến 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Ấn định thời gian thử thách phù hợp.
Về bồi thường thiệt hại: Các bên đã thỏa thuận bồi thường xong, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.
Về chứng cứ: Xe mô tô 77X3 -7136 và xe mô tô 77S3 -3044 đã trả cho chủ sở hữu nên không xem xét.
Đối với ông Nguyễn Ngọc V là người đứng tên trong giấy đăng ký xe mô tô BKS: 77X3 – 7136, vào thời điểm trước khi xảy ra vụ tai nạn thì anh V đã đi làm thợ mộc, để xe mô tô trên tại nhà. Bị can H đã tự ý điều khiển xe mô tô trên đi mua phế liệu rồi gây tai nạn, anh V không biết sự việc trên nên không có căn cứ để xử lý anh Việt về hành vi “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ” quy định tại Điều 264 BLHS năm 2015.
Bị cáo, người đại diện hợp pháp của gia đình bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội cũng như đề nghị giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tây Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và công nhận cáo trạng truy tố đúng với hành vi phạm tội của bị cáo. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và đã được thẩm vấn tại phiên tòa, HĐXX có đủ căn cứ để xác định vụ án như sau:
Khoảng 11 giờ ngày 11/07/2020, tại ngã ba giao nhau giữa hai đường bê tông thuộc Phú An - Tây Xuân – Tây Sơn – Bình Định, Bùi Thị H (sinh năm 1979, ở thôn TĐ 2 – xã BH – huyện TS – tỉnh Bình Định, không có giấy phép lái xe mô tô hạng A1 theo quy định) điều khiển xe mô tô biển số 77X3– 7136, có dung tích xi lanh 110cm3 , tham gia giao thông đi sang phần đường bên trái theo chiều đi của mình rồi dừng xe trên phần đường di chuyển của xe mô tô biển số 77S3-3044 do ông Nguyễn Phúc H2 (sinh năm 1972, ở Phú Hiệp – Tây Phú – Tây Sơn – Bình Định) điều khiển mà không có tín hiệu báo cho ông H2 biết, vị trí dừng xe phía bên trái theo chiều đi của H, dừng xe tại nơi đường giao nhau dẫn đến xảy ra tai nạn giao thông làm ông H2 bị thương điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định đến ngày 18/7/2020 thì chết. Hành vi nêu trên của Bùi Thị H đã vi phạm quy định tại khoản 9 Điều 8, khoản 1 Điều 9, điểm a, b khoản 3, điểm e khoản 4 Điều 18 Luật giao thông đường bộ, gây hậu quả nghiêm trọng làm chết 01 người. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi vô ý, gây thiệt hại cho tính mạng của người khác. Do đó VKSND huyện Tây Sơn truy tố bị cáo về tội:“Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người đã trưởng thành, nhưng lại không có giấy phép lái xe mô tô hạng A1 theo quy định, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, lẽ ra bị cáo phải có ý thức nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông đường bộ nhưng bị cáo có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 77X3– 7136, không có giấy phép lái xe, đồng thời không chú ý quan sát, đi sang phần đường bên trái theo chiều đi của mình, điều khiển xin qua đường mà không có tín hiệu báo cho ông H2 biết là nguyên nhân trực tiếp gây ra vụ tai nạn giao thông làm ông H2 bị thương dẫn đến cái chết của ông H2.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở địa phương nên cần xử lý nghiêm minh, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Nhân thân bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự.
- Các tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
- Các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã khắc phục, bồi thường xong cho gia đình nạn nhân. Đại diện gia đình người bị hại tại phiên tòa tiếp tục xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo; bị cáo phạm tội lần đầu, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Do đó, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú rõ ràng để tạo điều kiện bị cáo tự cải tạo, có điều kiện làm ăn sinh sống và xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại ông Nguyễn Phúc H2 52.000.000 đồng. Tại phiên tòa đại diện gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.
[6] Về vật chứng: Xe mô tô 77X3 -7136 và xe mô tô 77S3 -3044 đã trả cho chủ sở hữu, gia đình ông H2 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì nên không xem xét giải quyết.
[7] Đối với ông Nguyễn Ngọc V là người đứng tên trong giấy đăng ký xe mô tô BKS: 77X3 – 7136, vào thời điểm trước khi xảy ra vụ tai nạn thì ông Việt đã đi làm thợ mộc, để xe mô tô trên tại nhà. Bị cáo H đã tự ý điều khiển xe mô tô trên đi mua phế liệu rồi gây tai nạn, ông V không biết sự việc trên nên không có căn cứ để xử lý ông V về hành vi “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ” quy định tại Điều 264 BLHS năm 2015.
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố bị cáo Bùi Thị H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Căn cứ vào điểm a, Khoản 2 Điều 260; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; 54; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):
- Xử phạt bị cáo Bùi Thị H 30 (Ba mươi) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (Sáu mươi) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 11/8/2021.
Giao bị cáo Bùi Thị H về cho chính quyền địa phương nơi cư trú là UBND xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Bùi Thị H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
* Về án phí: Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Bùi Thị H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
* Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 43/2021/HS-ST
Số hiệu: | 43/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về