TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 29/2024/DS-ST NGÀY 26/06/2024 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU HỦY HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC, HỦY HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong ngày 28/5/2024 và ngày 26/6/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm, công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 254/2023/TLST-DS ngày 18/12/2023 về việc “Tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc, tranh chấp về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giải quyết hậu quả của việc hủy hợp đồng đặt cọc” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2024/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 4 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 317/2024/QĐST-DS ngày 10 tháng 5 năm 2024 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 391/2024/QĐST-DS ngày 28/5/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1957 Nơi cư trú: số A, tổ F, ấp A, xã V, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: bà Phạm Thị L, sinh năm 1981 Nơi cư trú: số C, tổ H, ấp A, xã V, huyện V, tỉnh Đồng Nai. SĐT: 0354.144.4xx (Bà Đ có mặt, bà L có mặt ngày 28/5/2024, vắng mặt ngày 26/6/2024).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn, bà Nguyễn Thị Đ trình bày:
Bà và Phạm Thị L có quan hệ là anh em họ hàng. Vào ngày 18/07/2019 bà Phạm Thị L cần tiền nên hỏi để bán cho bà 1000m2 đất rẫy (một ngàn mét vuông đất rẫy) thuộc một phần thửa đất số 472 tờ bản đồ số 116 tọa lạc tại tổ I, khu phố G, thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai với giá 350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng). Thửa đất là tài sản bà L được hưởng phần thừa kế của mẹ bà L đã chết để lại. Anh chị em bà L thống nhất mỗi người được hưởng 1000m2. Anh chị em bà L thỏa thuận để lại cho bà Phạm Thị B đứng tên trong giấy chứng nhận Quyền dụng đất, sau đó bà B sẽ chia lại cho bà L. Nên khi bà mua 1000m2 đất chưa được tách và chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất riêng vì lúc đó mấy anh chị em bà L đang làm thủ tục cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất sang tên cho bà B. Và sau đó khi bà B được cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất xong rồi bà B có đi sang tên cho bà L 1000m2 thuộc một phần thửa đất số 472 tờ bản đồ số 116 tọa lạc tại tổ I, khu phố G, thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai. Bà L hứa sẽ đi làm thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà xong thì mới giao đất cho bà quản lý sử dụng. Thời điểm đó do heo bị dịch tả châu phi nên bà không có tiền để mua đất nhưng vì là anh em họ hàng và tin tưởng bà L, bà L cũng đồng ý cho bà trả dần nên bà đã đồng ý mua đất của bà L. Ngày 18/7/2019 bà đã đặt cọc cho bà L 100.000.000 đồng và hai bên viết giấy đặt cọc đất ngày 18/7/2019, bà L đã nhận của bà 100.000.000 đồng, giấy này do bà L viết, ký tên đồng thời đưa lại cho bà ký và bà giữ giấy. Sau đó tối tiếp tục đưa cho bà L tiền và được chia theo các đợt như sau:
Ngày 10/08/2019 bà L nhận 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).
Ngày 30/08/2019 bà L nhận 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
Ngày 11/09/2019 bà L nhận 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng).
Ngày 18/09/2019 bà L nhận 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).
Ngày 24/09/2019 bà L nhận 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng).
Ngày 25/10/2019 bà L nhận 5.000.000 đồng (năm triệu đồng).
Ngày 05/11/2019 bà L nhận 3.000.000 đồng (ba triệu đồng).
Ngày 30/10/2019 bà L nợ bà B số tiền 5.000.000 đồng nên bà L nói bà trả cho bà B và cấn trừ vào số tiền đất. Lúc đó bà cũng không có tiền bà phải mượn của chị S đưa cho bà B.
Do số tiền bà đã trả cho bà L làm nhiều lần nên đến này 07/11/2019 hai bên mới viết giấy bán đất để tổng lại số tiền mà bà L đã nhận của bà là 308.000.000 đồng (Ba trăm lẻ tám triệu đồng). Do việc hai bên thỏa thuận mua bán đất từ ngày 18/7/2019 nên trên phía trên ghi là ngày 18/7/2019 còn phía dưới giấy bán đất ghi ngày 07/11/2019 là chốt là số tiền đã giao.
Sau đó chiều ngày 07/11/2019 bà L nhận tiếp 26.000.000 đồng (hai mươi sáu triệu đồng) Ngày 11/11/2019 bà L nhận 3.000.000 đồng (ba triệu đồng). Ngày 16/12/2019 bà L nhận 5.000.000 đồng (năm triệu đồng). Ngày 26/02/2020 bà L nhận 5.000.000 đồng (năm triệu đồng).
Còn số tiền 3.000.000 đồng khi nào làm sổ đó sang tên cho bà, bà sẽ đưa tiếp.
Tính tổng cộng số tiền bà trả cho bà L nhận là 347.000.000 đồng (ba trăm bốn mươi bảy triệu đồng). Trong đó có 5.000.000 đồng bà đưa cho bà B (Chị gái bà L) hiện nay bà B đã chết và khi bà đưa tiền cho bà B thì bà B không ký nhận giấy tờ gì cả, do đó bà xin trừ số tiền 5.000.000 đồng này ra (không yêu cầu giải quyết) và còn lại tổng số tiền bà L nhận trực tiếp từ bà là 342.000.000 đồng và bà L có ký nhận tiền.
Tuy nhiên từ đó tới nay bà L vẫn không làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà, không giao đất cho bà quản lý, sử dụng. Bà đã làm đơn gửi đến Ủy ban nhân dân thị trấn V yêu cầu giải quyết. Tại biên bản xác minh ngày 02/06/2021 của Ủy ban nhân dân thị trấn V thì bà L hứa nếu không thỏa thuận được các thành viên trong gia đình thì sẽ trả lại tiền cho bà và trả tiền lãi theo lãi suất ngân hàng. Cho đến nay bà L vẫn không thực hiện trả tiền hay tiếp tục thực hiện thủ tục chuyển nhượng đất cho bà. Số tiền mà bà mua đất của bà L là tiền riêng của bà không liên quan đến chồng con của bà.
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: 1. Hủy giấy đặt cọc ngày 18/7/2019 giữa bà Nguyễn Thị Đ và bà Phạm Thị L 2. Hủy giấy bán đất ngày 07/11/2019 giữa bà Nguyễn Thị Đ và bà Phạm Thị L.
3. Buộc bà Phạm Thị L phải trả lại cho bà Nguyễn Thị Đ số tiền 342.000.000 (ba trăm bốn mươi hai triệu) đồng và tiền lãi từ ngày 26/02/2020 đến ngày 26/3/2023 với lãi suất 1%/tháng.
Ngày 16/4/2024 và tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị Đ rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc: buộc bà Phạm Thị L phải trả tiền lãi từ ngày 26/02/2020 đến ngày 26/3/2023 với lãi suất 1%/tháng.
* Tại phiên tòa, bị đơn bà Phạm Thị L trình bày:
Bà không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đ. Do bà không ký hợp đồng đặt cọc, không ký hợp đồng chuyển nhượng, cũng như không nhận tiền mua bán đất như trình bày của bà Đ. Chữ ký, chữ viết mang tên “Phạm Thị L” trong “Giấy đặc cọc đất”, “Giấy bán đất”, các nội dung thể hiện giao nhận tiền mà bà Đ giao nộp cho Tòa án; cũng như trong “Biên bản xác minh” ngày 02/6/2021 của UBND thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai không phải là chữ ký, chữ viết của bà.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
* Về tố tụng:
- Việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán từ khi thụ lý hồ sơ là đúng quy định.
- Việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử và đương sự là đúng quy định.
* Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, hủy hợp đồng đặt cọc, hủy hợp đồng bán đất.
+ Buộc bà Pham Thị L phải trả cho bà Nguyễn Thị Đ số tiền 342.000.000 đồng.
+ Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu tính tiền lãi do nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện.
+ Buộc bà Pham Thị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:
* Về tố tụng:
[1] Về thẩm quyền giải quyết:
Bà Nguyễn Thị Đ khởi kiện yêu cầu hủy “Hợp đồng đặt cọc; hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu giải quyết hậu quả của hủy hợp đồng đặt cọc, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Thửa đất các bên chuyển nhượng tọa lạc tại thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai; bị đơn bà Pham Thị L cư trú tại: xã V, huyện V, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai và xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp về yêu cầu hủy Hợp đồng đặt cọc; hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu giải quyết hậu quả của hủy hợp đồng đặt cọc, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
[2] Tại phiên tòa ngày 26/6/2024, bị đơn bà Pham Thị L vắng mặt không có lý do, không có đơn xin vắng mặt, căn cứ Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.
* Về nội dung vụ án:
[3] Tại phiên tòa ngày 28/5/2024, bà Pham Thị L yêu cầu trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết; Hội đồng xét xử đã ngừng phiên tòa để bà L thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, bà L đã không yêu cầu tiến hành trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết nên Hội đồng xét xử căn cứ vào chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ để giải quyết vụ án.
[4] Về yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc và hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất [4.1] Xét hình thức hợp đồng:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Đ và bà Phạm Thị L được xác lập ngày 07/11/2019, không có công chứng, chứng thực.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 502 của Bộ luật Dân sự năm 2015 “1. Hợp đồng về quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản theo hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này, pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan...” và khoản 3 Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013 định “a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực…”, do việc chuyển nhượng giữa bà Đ và bà L không tuân thủ về hình thức của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên bị vô hiệu về hình thức.
[4.2 ] Về nội dung hợp đồng:
Hồ sơ thu thập tại Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ - chi nhánh V: Ngày 17/7/2019, bà Phạm Thị M, bà Phạm Thị B, bà Phạm Thị G, bà Phạm Thị L, ông Phạm Văn L1, ông Phạm Văn Đ1 có văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 231/2019, quyền số 02TP/CC-SCT/HĐ,GĐ của UBND thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai, theo đó để lại toàn bộ di sản thừa kế là thửa đất số 51 tờ bản đồ số 116; thửa 330 tờ bản đồ số 116 cho bà Phạm Thị B.
Theo Công văn số 354/VPĐK.VC-TTLT ngày 05/02/2024 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ - chi nhánh V về việc cung cấp thông tin theo yêu cầu của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu:
“…Nguồn gốc thửa 472 tờ bản đồ số 116 thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai: do bà Phạm Thị B nhận thừa kế của ông Phạm Văn M1 và bà Lê Thị H năm 2019. Ngày 28/12/2019 bà Phạm Thị B có đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 51 tờ bản đồ số 116 (BD thành lập năm 2016), thị trấn V có điện tích 10.461,4m², mục đích sử dụng: đất trồng cây lâu năm. Ngày 13/02/2020, UBND huyện V, tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 256799 cho bà Phạm Thị B.
Ngày 13/5/2020, bà Phạm Thị B có đơn đề nghị tách thửa đất đối với thửa đất số 51, tờ BĐĐC số 116, thị trấn V thành các thửa đất số 471, 472 tờ BĐĐC số 116 thị trấn V.
...
Thửa đất số 472 tờ BD ĐC số 116 thị trấn V.
Ngày 24/8/2020, bà Phạm Thị B có đơn đăng ký biến động xin cấp đổi đối với thửa đất số 472 tờ BD ĐC số 116 thị trấn V, có điện tích 8.167,2m², mục đích sử dụng: đất trồng cây lâu năm. Ngày 07/9/2020, Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ, thừa ủy quyền Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX 807325 cho bà Phạm Thị B...”.
Như vậy, tại thời điểm các bên ký hợp đồng đặt cọc, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì thửa đất số 472, tờ bản đồ 116 thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai không thuộc quyền sử dụng của bà Phạm Thị L.
Việc các bên ký Hợp đồng đặt cọc, hợp đồng chuyển nhượng đất là vi phạm điều cấm của luật và không tuân thủ quy định về hình thức. Căn cứ các Điều 122, 123 và Điều 129 của Bộ luật dân sự năm 2015, Giấy đặt cọc đất ngày 18/7/2019 và Giấy bán đất ngày 07/11/2019 vô hiệu. Căn cứ Điều 423 của Bộ luật dân sự, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc “Tranh chấp về yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc; tranh chấp về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” là có căn cứ chấp nhận.
[5] Về yêu cầu giải quyết hậu quả của việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy hợp đồng đặt cọc Theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự năm 2015:
“1. Giao dịch vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
... 4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường...” Về lỗi làm cho giao dịch dân sự vô hiệu: Các bên khi giao dịch dân sự đều có nghĩa vụ phải biết được quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nên cả hai bên đều có lỗi như nhau khi hợp đồng vô hiệu.
Để thực hiện nghĩa vụ của bên nhận chuyển nhượng, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ đã giao số tiền 342.000.000 đồng. Do có căn cứ để hủy hợp đồng đặt cọc, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên căn cứ Điều 131 và Điều 427 của Bộ luật dân sự, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ về việc buộc bà Phạm Thị L có nghĩa vụ trả lại số tiền 342.000.000 đồng là có căn cứ chấp nhận.
Các bên chỉ mới ký hợp đồng chuyển nhượng, chưa tiến hành bàn giao đất nên không phát sinh nghĩa vụ trả lại đất của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ.
* Nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu: “buộc bà Phạm Thị L phải trả tiền lãi từ ngày 26/02/2020 đến ngày 26/3/2023 với lãi suất 1%/tháng”.
Căn cứ Điều 217, 235, 244 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ đối với phần yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn.
[6] Về lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền: các đương sự không thỏa thuận được lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền, căn cứ Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015, lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận một phần nên bị đơn bà Phạm Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số tiền 300.000 đồng và tranh chấp về yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc số tiền 300.000 đồng.
Do bà Phạm Thị L phải trả cho bà Nguyễn Thị Đ số tiền 342.000.000 đồng nên bà Phạm Thị L phải chịu án phí số tiền 342.000.000 đồng x 5% = 17.100.000 đồng.
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận và nguyên đơn rút một phần yêu cầu về giải quyết hậu quả của hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên nguyên đơn không phải chịu tiền án phí. Bà Nguyễn Thị Đ đã trên đã trên 60 tuổi, có đơn xin miễn tạm ứng án phí và được chấp nhận nên được miễn tiền tạm ứng án phí.
[8] Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 40, 147, 217, 218, 219, 235, 227, 228, 238, 244, 266, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 122, 123, 131, 357, 423, 427 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 12, 167, 168 và 188 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1.1 Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Đ về việc “Tranh chấp về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; tranh chấp về yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc và yêu cầu giải quyết hậu quả của việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với bị đơn bà Phạm Thị L.
Tuyên hủy “Giấy bán đất” ngày 18/7/2019 giữa người chuyển nhượng bà Phạm Thị L và người nhận chuyển nhượng bà Nguyễn Thị Đ; tuyên hủy “Giấy đặc cọc đất” ngày 18/7/2019 giữa người đặt cọc bà Nguyễn Thị Đ và người nhận đặt cọc bà Pham Thị L đối với diện tích 1000 m² thuộc một phần thừa 472, tờ bản đồ số 116 tọa lạc tại thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai do vô hiệu.
Buộc bà Pham Thị L có nghĩa vụ trả lại cho bà Nguyễn Thị Đ số tiền đã nhận là 342.000.000 (ba trăm bốn mươi hai triệu) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
1.2 Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bà Pham Thị L phải trả tiền lãi từ ngày 26/02/2020 đến ngày 26/3/2023 với lãi suất 1%/tháng.
Đương sự có quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ, việc dân sự đã được đình chỉ theo quy định của pháp luật.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Buộc bị đơn bà Pham Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số tiền 300.000 đồng và tranh chấp về yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc số tiền 300.000 đồng.
- Buộc bị đơn bà Pham Thị L phải chịu án phí dân sự có giá ngạch về việc phải trả lại cho nguyên đơn số tiền 342.000.000 đồng là 17.100.000 (mười bảy triệu một trăm nghìn) đồng.
Bà Pham Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tổng số tiền là: 17.700.000 (mười bảy triệu bảy trăm nghìn) đồng.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 29/2024/DS-ST
| Số hiệu: | 29/2024/DS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Ngày ban hành: | 26/06/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về