TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 33/2024/DS-PT NGÀY 30/01/2024 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU CHẤM DỨT HÀNH VI CẢN TRỞ TRÁI PHÁP LUẬT QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 105/2023/TLPT-DS ngày 16 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 93/2023/DS-ST ngày 09 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 188/2023/QĐ-PT ngày 06 tháng 11 năm 2023, giừa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Hữu A, sinh năm 1969; bà Trần Tôn Kim N, sinh năm 1972; cùng cư trú tại: A N, thành phố Q, tỉnh Bình Định (có mặt).
- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Ngân S, sinh năm 1987 (vắng mặt); bà Huỳnh Thị S1, sinh năm 1965 (có đơn xin xét xử vắng mặt); cùng cư trú tại: 4 T, TP ., tỉnh Bình Định.
- Người kháng cáo: Bà Huỳnh Thị S1 và chị Nguyễn Thị Ngân S là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn ông Trần Hữu A và bà Trần Tôn Kim N thống nhất trình bày:
Ngày 18/01/2019 vợ chồng ông bà có nhận chuyển nhượng thửa đất số 11, khu quy hoạch dân cư hồ S từ bà Nguyễn Thị Phương H và ông Nguyên Vũ P. Hợp đồng chuyển nhượng được công chứng tại Phòng C, tỉnh Bình Định. Sau khi nhận chuyển nhượng vợ chồng ông tiến hành đăng ký Quyền sử dụng đất, đã hoàn tất các thủ tục pháp lý theo quy định và được Sở tài nguyên và môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có số vào sổ cấp GCN: CS01136 ngày 06/3/2019. Ngày 19/3/2019 ông bà được UBND thành phố Q cấp giấy phép xây dựng số 516/GPXD tại thửa đất nói trên nhưng khi vợ chồng ông tiến hành xây dựng nhà theo giấy phép thì bà S1 và chị S ngăn cản, không cho xây dựng. Chị Nguyễn Thị Ngân S khởi kiện yêu cầu Tòa tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng sửa đổi bổ sung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với lô đất nói trên giữa chị Nguyễn Thị Ngân S anh Lê Đình D với ông Từ Nguyên V được công chứng tại Văn phòng C1 ngày 07/10/2013 là vô hiệu và giải quyết hậu quả hợp đồng, vợ chồng ông bà là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án có yêu cầu độc lập, yêu cầu chị S tháo gỡ di dời tài sản gắn liền trên đất, trả lại Quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông bà. Tại Bản án số 29/2020/DS-ST ngày 26/02/2020 của Toa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định đã xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị S, chấp nhận yêu cầu độc lập của vợ chồng ông bà, chị S kháng cáo bản án trên.
Tại phiên Tòa phúc thẩm ngày 17/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, bà Huỳnh Thị S1 (Người đại diện theo ủy quyền của chị S) đã thỏa thuận với vợ chồng ông bà mua lại thửa đất trên với giá 7.500.000.000đ. Hai bên lập bản thỏa thuận ngày 17/7/2020 với nội dung, ngày 30/7/2020 hai bên đến Phòng C lập hợp đồng chuyển nhượng và giao tiền lô đất trên, đồng thời nguyên đơn rút đơn khởi kiện, rút kháng cáo để hai bên thực hiện. Cùng ngày TAND tỉnh Bình Định đã ra Quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án số 63/2020/QĐ-PT ngày 17/7/2020 của TAND tỉnh Bình Định.
Nhưng đến ngày 30/7/2020 bà S1 không thực hiện như đã thỏa thuận. Ngày 25/8/2020 bà S1 viết bản cam kết hẹn ngày 25/9/2020 sẽ thực hiện nhưng sau đó bà S1 không thực hiện được theo cam kết. Ngày 03/11/2020 bà S1 viết giấy thỏa thuận hẹn lại đến ngày 04/12/2020 sẽ giao đủ tiền và nhận lại đất với số tiền chuyển nhượng là 8.000.000.000đ, nhưng sau đó bà S1 lại tiếp tục không thực hiện như thỏa thuận và cũng không chịu tháo dỡ, di dời tài sản gắn liền trên thửa đất số Lô 11, tại khu Q để trả lại thửa đất cho vợ chồng ông bà.
Tại phiên hòa giải ngày 23/11/2022, hai bên thống nhất trong thời gian 03 tháng vợ chồng ông bà sẽ chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất tại thửa đất số Lô 11, khu quy hoạch dân cư hồ S cho bị đơn với giá chuyển nhượng là 8,5 tỷ đồng. Đến hẹn bà S1 vẫn không thực hiện như thỏa thuận.
Nay vợ chồng ông bà yêu cầu bà Huỳnh Thị S1 và chị Nguyễn Thị Ngân S chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất của ông bà và tháo dỡ di dời: Toàn bộ trụ và tường rào khung sắt theo chiều rộng thửa đất (5 mét) tiếp giáp với vỉa hè đường H (nay là đường L); 01 hồ nước xây gạch, đường kính 1,5 mét; 01 cây lộc vừng; Và các tài sản cũ khác trên đất như: Cửa nhôm, kính và các vật liệu xây dựng cũ. Trả lại mặt bằng thửa đất số Lô 11, khu quy hoạch dân cư hồ S theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và các tài sản khác gắn liền với đất có số vào sổ cấp GCN: CS01136 ngày do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh B đã cấp cho vợ chồng ông bà vào ngày 06/3/2019, để ông bà tiến hành xây dựng nhà ở theo quy định.
Bị đơn bà Huỳnh Thị S1 đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn chị Nguyễn Thị Ngân S trình bày:
Bà Huỳnh Thị S1 là mẹ đẻ của chị Nguyễn Thị Ngân S, anh Lê Đình D là chồng của chị S, con rể bà S1. Nguồn gốc thửa đất số 11, khu quy hoạch dân cư hồ Sinh thái Đống Đa là của vợ chồng chị S anh D. Năm 2013 vợ chồng chị S đã thế chấp thửa đất trên cho ông Từ N1 V để vay số tiền 2 tỷ đồng (có chứng từ trả lãi, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, phụ lục hợp đồng thể hiện vay tiền có chứng thực tại Phòng C2). Sau đó, ông V đã tự ý dịch chuyển tài sản của vợ chồng chị S cho người khác. Khi chị S phát hiện sự việc nên đã khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn về hợp đồng giả tạo trên và yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng. Tòa án đã thụ lý vụ án và đang giải quyết. Đến ngày 06/3/2019 Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Hữu A và bà Trần Tôn Kim N là sai quy định của luật đất đai năm 2013. Đến nay chị S đã tiến hành khởi kiện hành chính đến Ủy ban nhân dân thành phố Q và Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B vì đã cấp sổ sai quy định pháp luật.
Nay vợ chồng ông Trần Hữu A bà Trần Tôn Kim N yêu cầu bà và chị S chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất của ông bà và tháo dở di dời: Toàn bộ trụ và tường rào khung sắt theo chiều rộng thửa đất (5 mét) tiếp giáp với vỉa hè đường H (nay là đường L); 01 hồ nước xây gạch, đường kính 1,5 mét; 01 cây lộc vừng; và các tài sản cũ khác trên đất như: Cửa nhôm, kính và các vật liệu xây dựng cũ. Trả lại mặt bằng thửa đất số Lô 11, khu quy hoạch dân cư hồ S theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và các tài sản khác gắn liền với đất có số vào sổ cấp GCN: CS01136 ngày do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh B đã cấp cho vợ chồng ông A bà N vào ngày 06/3/2019, để ông A bà N tiến hành xây dựng nhà ở theo quy định, bà không đồng ý.
Tại phiên hòa giải ngày 23/11/2022, bà đề nghị trong thời gian 03 tháng chậm nhất là đến ngày 23/02/2023, bà sẽ giao 8,5 tỷ đồng để hai bên thực hiện lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa đất số Lô 11, khu quy hoạch dân cư hồ Sinh thái Đống Đa theo đúng quy định pháp luật. Nếu quá thời hạn trên bà không thực hiện được thì tự nguyện chấm dứt hành vi cản trở và tháo dỡ di dời tài sản trên đất để trả lại mặt bằng thửa đất số 11, khu quy hoạch dân cư hồ S cho vợ chồng ông A bà N. Nhưng đến nay bà vẫn chưa thực hiện được thỏa thuận trên do khó khăn về kinh tế.
Bản án dân sự sơ thẩm số 93/2023/DS-ST ngày 09 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn đã quyết định:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hữu A bà Trần Tôn Kim N.
- Buộc bà Huỳnh Thị S1 và chị Nguyễn Thị Ngân S phải chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất của ông Trần Hữu A bà Trần Tôn Kim N đối với thửa đất đất số Lô 11, địa chỉ: Khu Q, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS01136 ngày do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh B đã cấp cho vợ chồng ông A bà N vào ngày 06/3/2019.
- Buộc bà Huỳnh Thị S1 và chị Nguyễn Thị Ngân S phải có nghĩa vụ tháo dỡ và di dời toàn bộ trụ và tường rào khung sắt theo chiều rộng thửa đất (5 mét) tiếp giáp với vỉa hè đường H (nay là đường L); 01 hồ nước xây gạch, đường kính 1,5 mét; 01 cây lộc vừng; 01 chậu trồng cây xanh cao 02 mét; 01 khung sắt có trụ và giàn treo; và các tài sản cũ khác trên đất như: Cửa nhôm, kính và các vật liệu xây dựng cũ có trên đất tại thửa đất đất số Lô 11, địa chỉ: Khu Q, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định.
2. Bác lời nại bà Huỳnh Thị S1 và chị Nguyễn Thị Ngân S cho rằng thửa đất số Lô 11, khu Q, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định vẫn thuộc quyền sử dụng của vợ chồng chị S anh D.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 02, 03 tháng 7 năm 2023, bị đơn bà Huỳnh Thị S1 và chị Nguyễn Thị Ngân S có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm. Ngày 06 tháng 12 năm 2023 bị đơn chị Nguyễn Thị Ngân S rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo.
Tại phiên Tòa phúc thẩm nguyên đơn giữ nguyên đơn khởi kiện, bị đơn bà Huỳnh Thị S1 giữ nguyên nội dung kháng cáo như trên.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Trong quá trình tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Thị Ngân S, không chấp nhận nội dung kháng cáo của bà Huỳnh Thị S1, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về sự vắng mặt của các bên đương sự: Bị đơn chị Nguyễn Thị Ngân S vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Bị đơn bà Huỳnh Thị S1 có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[1.2] Ngày 06 tháng 12 năm 2023, chị Nguyễn Thị Ngân S có đơn xin rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng việc rút yêu cầu kháng cáo của chị S là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc nên căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 289 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với toàn bộ yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Thị Ngân S.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Huỳnh Thị S1, thấy rằng:
Căn cứ biên bản thỏa thuận ngày 17/7/2020 tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, bà Huỳnh Thị S1 tự viết đơn với nội dung: “...tôi Huỳnh Thị S1 đã thỏa thuận được với vợ chồng ông Trần Hữu A - 1969 và Trần Tôn Kim N - 1972, địa chỉ: cùng ở tại AN - TP Q -BĐ nội dung thỏa thuận như sau: Tôi thống nhất nhận lại lô đất số 11 L - TP Q đã có trong đơn khởi kiện tuyên về việc hợp đồng vô hiệu với giá 7.500.000.000 đồng (bảy tỷ năm trăm triệu đồng chẵn) để nhận lại lô đất trên do vợ chồng ông Trần Hữu A đang đứng tên trong sổ đỏ giao lại cho tôi. Sau khi tôi đã giao tiền, vợ chồng ông Trần Hữu A cùng tôi đến Văn phòng C3 để làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở tại lô số A L - Đầm sinh thái Đ, TP Q có diện tích là 75m2... Việc chuyển nhượng này sẽ tiến hành vào ngày 30-7-2020...”.
Căn cứ Bản cam kết lập ngày 25/8/2020 tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định do bà bà Huỳnh Thị S1 viết đơn thể hiện nội dung như sau: “...hai bên thống nhất giao hẹn ngày 30-7-2020 để cùng nhau ra công chứng số 1 Q - BĐ để làm thủ tục mua bán giao tiền, giao số. Nhưng vì lý do trục trặc tài chính nên bị trễ hẹn. Nay tôi (S1) hẹn lại ngày 25-09-2020 tôi sẽ giao đủ số tiền trên và nhận lại sổ lại và kể từ ngày 30-07-2020 tôi sẽ chịu lãi suất ngân hàng của 7 tỷ rưỡi đến khi chính thức ra công chứng lô đất số 11 Lê Đức T...”. Sau đó, ngày 03/11/2020, bà S1 tiếp tục viết giấy thỏa thuận với nội dung như trên nhưng hẹn lại về thời gian để thực hiện việc chuyển nhượng thửa đất nêu trên vào ngày 04/12/2020 với số tiền thỏa thuận là 8.000.000.000 đồng.
Do đó, có đủ căn cứ chứng minh bà Huỳnh Thị S1 mặc nhiên đã thống nhất thừa nhận tài sản đang tranh chấp là thửa đất số Lô 11, diện tích 75m2, loại đất ở, tọa lạc tại: Khu Q, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định thuộc quyền quản lý, sử dụng của vợ chồng ông A, bà N nên mới tự viết các văn bản nêu trên để thỏa thuận nhận chuyển nhượng lại thửa đất đang tranh chấp từ ông A và bà N.
[2.2] Mặt khác, ông Trần Hữu A và bà Trần Tôn Kim N cũng đã được Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất ngày 06/3/2019, S2 vào sổ cấp GCN: CS01136 đối với tài sản đang tranh chấp là thửa đất số Lô 11, diện tích 75m2, loại đất ở, tọa lạc tại: Khu Q, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định và được Ủy ban nhân dân thành phố Q cấp giấy phép Giấy phép xây dựng số 516/GPXD ngày 19/3/2019.
Như vậy, việc bà Huỳnh Thị S1 nại rằng thửa đất số Lô 11, tại Khu Q, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định vẫn thuộc quyền quản lý sử dụng của chị Nguyễn Thị Ngân S và anh Lê Đình D (là con gái và con rể của bà S1) vì cho rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trước đó giữa chị Nguyễn Thị Ngân S anh Lê Đình D với ông Từ N1 V là vô hiệu, nên việc chuyển nhượng giữa ông V với vợ chồng ông A bà N là không đúng theo quy định của pháp luật là không có căn cứ nên HĐXX cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bà Huỳnh Thị S1 và chị Nguyễn Thị Ngân S phải chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất của ông Trần Hữu A và bà Trần Tôn Kim N đối với thửa đất số lô 11, diện tích 75m2 đất ở, tọa lạc tại: Khu Q, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS01136 ngày do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh B đã cấp cho vợ chồng ông A bà N vào ngày 06/3/2019 là có căn cứ, phù hợp quy định tại các Điều 12, Điều 166 Luật đất đai; các Điều 158, 163, 164, 169 Bộ luật dân sự.
[2.3] Căn cứ biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 30/12/2022 thể hiện: Tài sản gắn liền với thửa đất đang tranh chấp bao gồm trụ và tường rào khung sắt theo chiều rộng thửa đất (5 mét) tiếp giáp với vỉa hè đường H (nay là đường L); 01 hồ nước xây gạch, đường kính 1,5 mét; 01 cây lộc vừng; 01 chậu trồng cây xanh cao 02 mét; 01 khung sắt có trụ và giàn treo; và các tài sản cũ khác trên đất như: Cửa nhôm, kính và các vật liệu xây dựng cũ là tài sản của bà S1 chị S. Do đó, HĐXX cấp sơ thẩm buộc bà Huỳnh Thị S1 và chị Nguyễn Thị Ngân S phải tháo dỡ toàn bộ các tài sản nêu trên trả lại mặt bằng thửa đất số lô 11, diện tích 75m2 đất ở, tọa lạc tại: Khu Q, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định cho vợ chồng ông A, bà N là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 166 Luật Đất đai và Điều 169 Bộ luật Dân sự.
[2.4] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn bà Huỳnh Thị S1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Tại tòa án cấp sơ thẩm, chị Nguyễn Thị Ngân S và bà Huỳnh Thị S1 đều có đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm. Căn cứ theo quy định tại Điều 146 Bộ luật tố tụng dân sự thì bà S1, chị S mỗi người phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là 300.000 đồng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại ban hành Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm số 533/TB-TA ngày 26/7/2023 yêu cầu bà S1 và chị S liên đới nộp 300.000đồng tạm ứng án phí phúc thẩm là không phù hợp quy định tại Điều 146 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 28 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Chị Nguyễn Thị Ngân S rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa nên chị S phải chịu 50% tiền án phí dân sự phúc thẩm là 150.000.000 đồng nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 150.000 đồng mà chị S đã liên đới nộp cùng với bà S1 theo biên lai thu số 0004214 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn.
Bà Huỳnh Thị S1 phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 150.000 đồng mà bà S1 đã liên đới nộp cùng với chị S theo biên lai thu số 0004214 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn. Bà Huỳnh Thị S1 còn phải chịu 150.000 đồng.
[5] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 146, Điều 148, khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 158, 163, 164, 169 Bộ luật dân sự của Bộ luật Dân sự năm 2005;
Căn cứ Điều 12, 66 Luật Đất đai năm 2003;
Căn cứ Điều 26, Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị đơn bà Huỳnh Thị S1. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 93/2023/DS-ST ngày 09 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn.
2. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với toàn bộ yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Thị Ngân S.
3. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Hữu A và bà Trần Tôn Kim N.
3.1. Buộc bà Huỳnh Thị S1 và chị Nguyễn Thị Ngân S phải chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất của ông Trần Hữu A và bà Trần Tôn Kim N đối với thửa đất số lô 11, địa chỉ: Khu Q, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS01136 ngày do Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh B đã cấp cho vợ chồng ông A bà N vào ngày 06/3/2019.
3.2. Buộc bà Huỳnh Thị S1 và chị Nguyễn Thị Ngân S phải có nghĩa vụ tháo dỡ và di dời toàn bộ trụ và tường rào khung sắt theo chiều rộng thửa đất (5 mét) tiếp giáp với vỉa hè đường H (nay là đường L); 01 hồ nước xây gạch, đường kính 1,5 mét; 01 cây lộc vừng; 01 chậu trồng cây xanh cao 02 mét; 01 khung sắt có trụ và giàn treo; các tài sản cũ khác như: Cửa nhôm, kính và các vật liệu xây dựng cũ có trên đất tại thửa đất đất số Lô 11, địa chỉ: Khu Q, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định.
4. Bác lời nại bà Huỳnh Thị S1 và chị Nguyễn Thị Ngân S cho rằng thửa đất số Lô 11, khu Q, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định vẫn thuộc quyền sử dụng của vợ chồng chị Nguyễn Thị Ngân S anh Lê Đình D.
5. Về án phí và chi phí tố tụng 5.1. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Huỳnh Thị S1 và chị Nguyễn Thị Ngân S phải chịu 300.000 đồng.
Ông Trần Hữu A và bà Trần Tôn Kim N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. H1 lại cho ông Trần Hữu A bà Trần Tôn Kim N 300.000đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0004543 ngày 03 tháng 10 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn.
5.2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Chị Nguyễn Thị Ngân S phải chịu 150.000 đồng nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 150.000đồng mà chị S đã liên đới nộp cùng với bà S1 theo biên lai thu số 0004214 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn.
Bà Huỳnh Thị S1 phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 150.000đồng mà bà S1 đã liên đới nộp cùng với chị S theo biên lai thu số 0004214 của chi cục thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn. Bà Huỳnh Thị S1 còn phải chịu 150.000đồng.
5.3. Về chi phí tố tụng: Bà Huỳnh Thị S1 phải chịu 2.000.000đồng. Bà S1 đã nộp xong.
6. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
7. Quyền và nghĩa vụ thi hành án:
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Bản án 33/2024/DS-PT về tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 33/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về