Bản án về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con số 48/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 48/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 17 tháng 5 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 211/2021/TLST–HNGĐ, ngày 08 tháng 12 năm 2021 về việc tranh chấp xin ly hôn và nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2022/QĐXXST–HNGĐ, ngày 08 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1980. Địa chỉ: Ấp B, xã L, huyện H, tỉnh B.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn Ng, sinh năm 1978. Địa chỉ: Ấp B, xã L, huyện H, tỉnh B.

(Chị Lê Thị H vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Lê Văn Ng vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2000, chị H và anh Ng có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện H, tỉnh B vào ngày 10/9/2008. Trong thời gian đầu, vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn do vợ chồng anh chị thường xuyên cự cải bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 02 năm cho đến nay. Nay chị H nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh Lê Văn Ng.

Về quan hệ con chung: Chị H xác định trong quá trình chung sống, giữa chị và anh Ng có 02 người con chung là cháu Lê Văn Th, sinh năm 2000 và cháu Lê Thịnh E, sinh ngày 21/10/2004. Hiện nay cháu Thịnh đã trưởng thành nên chị H không yêu cầu gì; đối với cháu Thịnh Em đang sống chung với chị H nên chị H yêu cầu được nuôi con nhưng không yêu cầu anh Ng cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị H không có yêu cầu gì khác.

Đối với bị đơn anh Lê Văn Ng không cung cấp lời khai của mình cho Tòa án, Tòa án có đến nơi cư trú của anh Ng để lấy lời khai nhưng anh Ng vắng mặt. Cơ quan có thẩm quyền tại địa phương nơi cư trú của anh Ng xác định: Anh Lê Văn Ng vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp B, xã L, huyện H, tỉnh B nhưng hiện tại anh Ng vắng mặt nơi cư trú, khi bỏ đi thì không có trình báo hay xin vắng mặt. Từ đó, Tòa án tiến hành niêm yết công khai tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án đúng quy định pháp luật nhưng đến nay anh Ng vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình; Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Lê Thị H được ly hôn với anh Lê Văn Ng.

2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Lê Thịnh E, sinh ngày 21/10/2004 cho chị H nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị H không yêu cầu anh Ng cấp dưỡng nuôi con nên anh Ng không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng anh Ng có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3. Về quan hệ tài sản: Chị H không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Lê Thị H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Lê Văn Ng và yêu cầu giải quyết về con chung nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con” là đúng quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Lê Văn Ng có nơi đăng ký thường trú tại ấp B, xã L, huyện H, tỉnh B nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Nguyên đơn chị Lê Thị H tuy rằng vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với chị H. Bị đơn anh Lê Văn Ng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Lê Văn Ng.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2000, chị H và anh Ng có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lộc Ninh, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 10/9/2008 nên quan hệ hôn nhân giữa chị H với anh Ng là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống đến nay, chị H xác định chị và anh Ng có phát sinh nhiều mâu thuẩn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chị H không thể hàn gắn với anh Ng được nữa. Hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 02 năm cho đến nay. Nay chị H nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Ng. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành xác minh được biết giữa chị H và anh Ng có phát sinh mâu thuẩn, vợ chồng lúc sống chung thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 02 năm cho đến nay. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị H được ly hôn với anh Lê Văn Ng.

[5] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống chị H xác định giữa chị và anh Ng có 02 người con chung cháu Lê Văn Th, sinh năm 2000 và cháu Lê Thịnh E, sinh ngày 21/10/2004. Hiện nay cháu Thịnh đã trưởng thành nên chị H không yêu cầu gì; đối với cháu Thịnh Em đang sống chung với chị H nên chị H yêu cầu được nuôi con nhưng không yêu cầu anh Ng cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Thịnh Em đang sống cùng chị H và cháu đã có cuộc sống, môi trường ăn, ở, học ổn định. Đồng thời cháu Thịnh Em có nguyện vọng theo sống cùng chị H. Do đó, Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu Lê Thịnh E, sinh ngày 21/10/2004 cho chị H nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị H không yêu cầu cấp dưỡng nên anh Ng không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng anh Ng có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

[6] Về quan hệ tài sản: Chị H không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Buộc chị H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị H.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lê Thị H được ly hôn với anh Lê Văn Ng.

2/ Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Lê Thịnh E, sinh ngày 21/10/2004 cho chị H nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị H không yêu cầu anh Ng cấp dưỡng nuôi con nên anh Ng không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng anh Ng có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3/ Về quan hệ tài sản: Chị H không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lê Thị H phải nộp số tiền là 300.000 đồng nhưng chị H đã dự nộp số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006010 ngày 08/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu toàn bộ số tiền trên thành án phí.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên được quyền kháng nghị bản án này theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con số 48/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:48/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;