Bản án về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con số 24/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 24/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/03/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 04 tháng 3 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 181/2021/TLST–HNGĐ, ngày 19 tháng 10 năm 2021 về việc tranh chấp xin ly hôn và nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022/QĐXXST–HNGĐ, ngày 24 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Tố Ng, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp C, xã Ni, huyện H, tỉnh B.

2. Bị đơn: Anh Trịnh Văn Lý A, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp C, xã Ni, huyện H, tỉnh B.

(Chị Nguyễn Tố Ng vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; anh Trịnh Văn Lý A vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Tố Ng trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Ng có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hùng, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh vào ngày 16/8/2006. Trong thời gian đầu, vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn do vợ chồng anh chị thường xuyên cự cải bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 01 năm cho đến nay. Nay chị Ng nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Ng yêu cầu được ly hôn với anh Trịnh Văn Lý A.

Về quan hệ con chung: Chị Ng xác định trong quá trình chung sống, giữa chị và anh Trịnh Văn Lý A có 02 người con chung là cháu Trịnh Tố Anh, sinh ngày 21/9/2005 và cháu Trịnh Nguyên Võ, sinh ngày 08/7/2008. Hiện tại cháu Tố Anh và cháu Võ đang sống chung với chị Ng. Nay chị Ng yêu cầu nuôi con nhưng không yêu cầu anh Lý Acấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị Ng không có yêu cầu gì khác.

Đối với bị đơn anh Trịnh Văn Lý A không cung cấp lời khai của mình cho Tòa án, Tòa án có đến nơi cư trú của anh Lý Ađể lấy lời khai nhưng anh vắng mặt. Cơ quan có thẩm quyền tại địa phương nơi cư trú của anh Lý Axác định: anh Trịnh Văn Lý A vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Ấp C, xã Ni, huyện H, tỉnh B nhưng hiện tại anh Lý Avắng mặt nơi cư trú, khi bỏ đi thì không có trình báo hay xin vắng mặt. Từ đó, Tòa án tiến hành niêm yết công khai tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án đúng quy định pháp luật nhưng đến nay anh Trịnh Văn Lý A vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình; Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Tố Ng được ly hôn với anh Trịnh Văn Lý A;

2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao các cháu Trịnh Tố Anh, sinh ngày 21/9/2005 và cháu Trịnh Nguyên Võ, sinh ngày 08/7/2008 cho chị Ng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Lý Akhông phải cấp dưỡng nuôi con nhưng có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3. Về quan hệ tài sản: Chị Nguyễn Tố Ng không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Nguyễn Tố Ng khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Trịnh Văn Lý A và yêu cầu giải quyết về con chung nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con” là đúng quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Trịnh Văn Lý A có nơi đăng ký thường trú tại Ấp C, xã Ni, huyện H, tỉnh B nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Nguyên đơn chị Nguyễn Tố Ng tuy rằng vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với chị Ng. Bị đơn anh Trịnh Văn Lý A vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Trịnh Văn Lý A.

Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Ng có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hùng, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh vào ngày 16/8/2006 nên quan hệ hôn nhân giữa chị Ng và anh Lý Alà hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống đến nay, chị Ng xác định chị và anh Lý Acó phát sinh nhiều mâu thuẩn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chị Ng không thể hàn gắn với anh Lý Ađược nữa. Hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 01 năm cho đến nay. Nay chị Ng nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Trịnh Văn Lý A. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành xác minh được biết giữa chị Ng và anh Lý Acó phát sinh mâu thuẩn, vợ chồng lúc sống chung thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 01 năm cho đến nay. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Nguyễn Tố Ng được ly hôn với anh Trịnh Văn Lý A.

[2] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống chị Ng xác định giữa chị và anh Lý Acó với nhau 02 người con chung là cháu Trịnh Tố Anh, sinh ngày 21/9/2005 và cháu Trịnh Nguyên Võ, sinh ngày 08/7/2008. Hiện tại cháu Tố Anh và cháu Võ đang sống chung với chị Ng. Nay chị Ng yêu cầu nuôi con nhưng không yêu cầu anh Lý Acấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, hiện tại cháu Tố Anh và cháu Võ đang sống cùng chị Ng và đã có cuộc sống, môi trường ăn, ở, học ổn định. Đồng thời, cháu Tố Anh và cháu Võ có nguyện vọng theo sống cùng mẹ là chị Ng. Do đó, Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu Trịnh Tố Anh, sinh ngày 21/9/2005 và cháu Trịnh Nguyên Võ, sinh ngày 08/7/2008 cho chị Ng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Lý Akhông phải cấp dưỡng nuôi con nhưng anh Lý Acó quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

[3] Về quan hệ tài sản: Chị Ng không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Buộc chị Ng phải chịu số tiền 300.000 đồng.

Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Tố Ng.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Tố Ng được ly hôn với anh Trịnh Văn Lý A.

2/ Về con chung: Tiếp tục giao cháu Trịnh Tố Anh, sinh ngày 21/9/2005 và cháu Trịnh Nguyên Võ, sinh ngày 08/7/2008 cho chị Nguyễn Tố Ng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Lý Akhông phải cấp dưỡng nuôi con nhưng anh Lý Ađều có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3/ Về tài sản chung: Chị Nguyễn Tố Ng không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Tố Ng phải nộp số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng chị Ng đã dự nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0005920 ngày 18/10/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu toàn bộ số tiền trên thành án phí.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên được quyền kháng nghị bản án này theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con số 24/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;