Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 27/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HIỆP, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 27/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN 

Ngày 19 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án Nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh  Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 73/2022/TLST–HNGĐ ngày  25 tháng 2 năm 2022 về tranh chấp “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2022/QĐXXST–HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Đào Văn N - sinh năm 1994 (có mặt)  Địa chỉ: số 325, tổ 09, ấp K, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Chị Ngô Thị H – sinh năm 1997 (có mặt)  HKTT: số 325, tổ 09, ấp K, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang. Tạm trú: ấp C, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn anh Đào Văn N trình bày:

Anh và chị Ngô Thị H chung sống với nhau vào ngày 02/01/2020, đăng ký  kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang ngày 11/02/2020. Vợ chồng có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán địa phương. Trước khi cưới, vợ chồng   tìm hiểu nhau trước khoảng 03 năm mới tiến tới hôn nhân, hôn nhân tự nguyện, không bị cưỡng ép.

Quá trình chung sống đến khoảng tháng 02/2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng sống không hòa hợp vì chị H thường xuyên về nhà mẹ ruột tại xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp sinh sống. Mặc dù anh N đã khuyên giải chị H nhiều lần để đảm bảo hạnh phúc gia đình nhưng chị H vẫn không thay đổi, dẫn đến thường xuyên mâu thuẫn. Nay anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể chung sống với nhau được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh N và chị H đã ly thân với nhau từ tháng 5/2021 cho đến nay.

- Về con chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, anh N yêu cầu:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh N yêu cầu được ly hôn với chị H.

- Về quan hệ con chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo bản tự khai và các lời khai tại Tòa án, bị đơn chị Ngô Thị H trình bày:  Chị và anh Đào Văn N chung sống với nhau vào ngày 02/01/2020, đăng ký  kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang ngày 11/02/2020. Vợ chồng có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán địa phương. Trước khi cưới, vợ chồng tìm hiểu nhau trước khoảng 03 năm mới tiến tới hôn nhân, hôn nhân tự nguyện, không bị cưỡng ép.

Quá trình chung sống thì không có phát sinh mâu thuẫn gì lớn. Nguyên nhân anh N muốn ly hôn với chị chủ yếu là do chị về nhà mẹ ruột tại xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp. Tuy nhiên, việc chị về nhà mẹ ruột sinh sống là do mẹ chị bị bệnh nên chị phải về chăm sóc, chứ không phải chị không muốn sống với anh N, đến khi mẹ chị hết bệnh thì dịch bệnh COVID-19 lại bùng phát, phải thực hiện giãn cách xã hội nên chị không thể về Kiên Giang được. Sau đó, cả nhà cha mẹ chị bị nhiễm bệnh phải cách ly, đến khi nhà chị hết bệnh, khoảng trước Tết Nguyên đán chị muốn về bên nhà chồng thì chị có gọi điện thoại cho anh N nhưng anh N không cho chị về; nên từ đó cho đến khi anh N nộp đơn xin ly hôn thì chị cũng không về bên nhà chồng. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, chị vẫn còn thương chồng, không muốn ly hôn, từ giờ chị sẽ về ở bên nhà chồng vì sức khỏe của mẹ   chị đã ổn định hơn, không cần chị chăm sóc nữa. Chị H và anh N đã ly thân với nhau từ tháng 5/2021 cho đến nay.

- Về con chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị H yêu cầu:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị H không đồng ý ly hôn với anh N, vì vợ chồng chị không có mâu thuẫn gì lớn.

- Về con chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết..

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của anh Đào Văn N được quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Nhân dân huyện Tân Hiệp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của anh Đào Văn N, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, anh Đào Văn N và chị Ngô Thị H chung sống với nhau được Uỷ ban Nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 10/2020, ngày 11/02/2020 đúng theo quy định tại Điều 9  Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của anh N: Trong quá trình vợ chồng anh chị chung sống thì thời gian đầu chung sống hạnh phúc. Đến tháng 02/2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh N cho rằng vợ chồng sống không hòa hợp vì chị H thường xuyên về nhà cha mẹ ruột tại xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp sinh sống. Mặc dù anh N đã khuyên giải chị H nhiều lần để đảm bảo hạnh phúc gia đình, nhưng chị H vẫn không thay đổi, dẫn  đến  thường xuyên mâu thuẫn. Anh N nhận thấy tình cảm vợ chồng anh chị không thể chung sống với nhau được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được.

Xét thấy, chị H cũng thừa nhận nguyên nhân anh N muốn ly hôn với chị chủ yếu là do chị về nhà cha mẹ ruột tại xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp sinh sống. Tuy nhiên, việc chị về nhà cha mẹ ruột sinh sống là do mẹ chị bị bệnh nên chị phải về   chăm sóc, rồi sau đó dịch bệnh COVID-19 lại bùng phát, phải thực hiện giãn cách xã hội nên chị không thể về Kiên Giang được. Sau đó, cả nhà cha mẹ chị bị nhiễm bệnh phải cách ly, đến khi nhà chị hết bệnh khoảng trước Tết Nguyên đán chị muốn về bên nhà chồng thì chị có gọi điện cho anh N nhưng anh N không cho chị  về; nên từ đó cho đến khi anh N nộp đơn xin ly hôn chị cũng không về bên nhà chồng. Như vậy, việc chị H về nhà cha mẹ ruột sinh sống đã dẫn đến mâu thuẫn của vợ chồng anh chị, dù có trở ngại khách quan là việc thực hiện giãn cách xã hội nhưng hai bên đã không chủ động tìm cách khắc phục, dẫn đến mỗi người ở một nơi trong một khoảng thời gian dài, tình cảm vợ chồng từ đó ngày càng lạnh nhạt, xa cách. Mặt khác, anh N và chị H đã ly thân với nhau từ tháng 5/2021 cho đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh N và chị H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, việc anh N yêu cầu được ly hôn với chị H là có cơ sở chấp nhận.

[2] Về quan hệ con chung: Anh Đào Văn N và chị Ngô Thị H xác nhận vợ chồng không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Anh Đào Văn N và chị Ngô Thị H xác  nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[4] Từ những nhận định trên, căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Đào Văn N,  Về quan hệ hôn nhân: Anh Đào Văn N được ly hôn với chị Ngô Thị H.

Về quan hệ con chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

- Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Anh Đào Văn N phải nộp 300.000đ   (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 9, Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 177, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều  228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 9 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,   

Xử   Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Đào Văn N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Đào Văn N được ly hôn với chị Ngô Thị  H.

2.  Về  án phí  hôn nhân gia  đình sơ thẩm:  Anh  Đào  Văn  N phải  nộp  300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006257, ngày 25 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Báo cho các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 27/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:27/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hiệp - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;