TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 35/2018/DSPT NGÀY 06/03/2018 VỀ TRANH CHẤP RANH ĐẤT
Ngày 06 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 194/2016/TLPT-DS, ngày 13 tháng 12 năm 2016, về tranh chấp ranh đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 176/2016/DS-ST ngày 19 tháng 10 năm 2016 của Tòa án nhân dân huyện E bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 52/2018/QĐ-PT ngày 21 tháng 02 năm 2018 giữa các đương sự:
1/ Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1917.
Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện E, tỉnh Vĩnh Long.
Uỷ quyền cho ông Phạm Phi H, sinh năm 1960 làm đại diện.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Văn P là ông Nguyễn Tấn Đ – Luật sư Văn phòng NTĐ thuộc đoàn luật sư tỉnh Vĩnh Long.
2/ Bị đơn: 2.1/ Ông Mai Văn T1, sinh năm 1962
2.2/ Bà Nguyễn Thị Lệ T2, sinh năm 1962
Cùng địa chỉ: ấp A, xã B, huyện E, tỉnh Vĩnh Long.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Mai Văn T1 và bà Nguyễn Thị Lệ T2 là ông Phan Duy V – Luật sư Văn phòng luật sư TL thuộc đoàn luật sư tỉnh Vĩnh Long.
3/ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1/ Ông Phạm Phi H, sinh năm 1960
3.2/ Bà Nguyễn Thị B1, sinh năm 1964
3.3/ Anh Phạm Minh C, sinh năm 1989
3.4/ Chị Phạm Thị Hồng N, sinh năm 1993
3.5/ bà Phan Thị B2, sinh năm 1919
3.6/ Ông Nguyễn Văn H1 sinh năm 1968
3.7/ Anh Nguyễn Hoàng S, sinh năm 1992
3.8/ Bà Võ Thị Bé T3, sinh năm 1968
3.9/ Anh Nguyễn Hoàng T4, sinh năm 1999
3.10/ Anh Nguyễn Hoàng L, sinh năm 1994
Đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị B2, anh Phạm Minh C, chị Phạm Thị Hồng N, cụ bà Phan Thị B1, ông Nguyễn văn H1, anh Nguyễn Hoàng S, bà Võ Thị Bé T3, anh Nguyễn Hoàng T4, anh Nguyễn Hoàng L là ông Phạm Phi H, sinh năm 1960.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Phạm Phi H là ông Nguyễn Tấn Đ – Luật sư Văn phòng luật sư NTĐ thuộc đoàn luật sư tỉnh Vĩnh Long.
3.11/ Anh Mai Minh T5, sinh năm 1991
3.12/ Anh Mai Minh T6, sinh năm 1989
Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện E, tỉnh Vĩnh Long.
Anh T5, anh T6 ủy quyền cho ông Mai Văn T làm đại diện.
3.13/ Bà Nguyễn Thị Lệ H2, sinh năm 1960
Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện E, tỉnh Vĩnh Long.
3.14/ Ông Nguyễn Văn B3, sinh năm 1966
3.15/ Ông Nguyễn Lưu G, sinh năm 1967.
Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện E, tỉnh Vĩnh Long.
Bà Nguyễn Thị Lệ H2, ông Nguyễn Văn B3 và ông Nguyễn Lưu G cùng ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Lệ T2 làm đại diện.
Người kháng cáo: Mai Văn T1 và Nguyễn Thị Lệ T2 là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 15/7/2015 của nguyên đơn là ông Nguyễn Văn P có ông Phạm Phi H làm đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ông Nguyễn Văn P có phần đất thửa số 1101, diện tích 1.100m2, loại đất chuyên dùng khác, do ông Nguyễn Văn P đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất này nằm cặp ranh với phần đất thuộc thửa số 1098, diện tích 1.250m2, loại đất chuyên dùng khác, do bà Nguyễn Thị N1 (Chết) đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hiện nay đang do bà Nguyễn Thị Lệ T2 và ông Mai Văn T1 trực tiếp canh tác và sử dụng. Các phần đất toạ lạc tại ấp A, xã B, huyện E, tỉnh Vĩnh Long.
Trong quá trình sử dụng giữa hai bên phân định ranh bằng 01 bờ đất và 01 phần ao, trên phần đất đang tranh chấp có một số loại cây trồng gồm: dừa, xoài, mít,... Hiện nay số cây trồng này do ông T1 và bà T2 trồng và quản lý sử dụng. Ông T1 và bà T2 lấn qua phần đất của ông Pchiều ngang khoảng 6m, chiều dài khoảng 30m, diện tích khoảng 180m2.
Nay ông P khởi kiện yêu cầu ông T1 và bà T2 trả lại phần đất đã lấn ranh có diện tích khoảng là 180m2 tại số thửa 1101, loại đất chuyên dùng khác. Đất tọa lạc ấp A, xã B, huyện E, tỉnh Vĩnh Long.
Bị đơn là ông Mai Văn T1 và bà Nguyễn Thị Lệ T2 thống nhất trình bày như sau: Ông T1 và bà T2 có phần đất tại thửa số 1098, diện tích 1.250m2, loại đất chuyên dùng khác, do bà Nguyễn Thị N1 (Chết) đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giáp ranh với phần đất tại thửa số 1101, diện tích 1.100m2, loại đất chuyên dùng khác do ông Nguyễn Văn P đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong quá trình sử dụng giữa hai bên phân định ranh bằng 01 bờ đất và 1 phần ao, trên phần đất đang tranh chấp có một số loại cây trồng gồm: dừa, xoài, mít,... Hiện nay số cây trồng này do ông T1 và bà T2 trồng và quản lý sử dụng.
Nay ông T1 và bà T2 cho rằng không có sử dụng lấn ranh qua phần đất của ông P, nên không đồng ý theo yêu cầu của ông P. Ông T1, bà T2 yêu cầu xác định ranh đất giữa các bên, công nhận phần đất tranh chấp ranh thuộc quyền sử dụng của bà T2, ông T1. Ngoài ra, không có yêu cầu gì thêm.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có ý kiến như sau:
Đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị B2, anh Phạm Minh C, chị Phạm Thị Hồng N, cụ bà Phan Thị B1, ông Nguyễn văn H1, anh Nguyễn Hoàng S, bà Võ Thị Bé T3, anh Nguyễn Hoàng T4, anh Nguyễn Hoàng L là ông Phạm Phi H đều thống nhất theo lời trình bày của ông P có ông H làm đại diện và không có yêu cầu gì thêm.
Đại diện theo ủy quyền của anh Mai Minh T5, anh Mai Minh T6 là ông Mai Văn T1: thống nhất theo lời trình bày của ông T1 và không có yêu cầu gì thêm.
Đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn B3, bà Nguyễn Thị Lệ H2, ông Nguyễn Lưu G là bà Nguyễn Thị Lệ T2: thống nhất theo lời trình bày của bà T2 và không có yêu cầu gì thêm.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 176/2016/DS-ST ngày 19/10/2016 của Tòa án nhân dân huyện E đã xử:
Áp dụng Điều 203 Luật đất đai năm 2013; khoản 2 Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn P về việc yêu cầu ông Mai Văn T1 và bà Nguyễn Thị Lệ T2 trả lại phần đất diện tích 152,3m2 tại thửa 1101 (thửa mới 12 –
2), tờ bản đồ số 1 (tờ bản đồ mới 15). Đất tọa lạc tại ấp A, xã B, huyện E, tỉnh Vĩnh Long.
Công nhận diện tích 152,3m2 tại thửa 1101 (thửa mới 12 – 2), tờ bản đồ số 1 (tờ bản đồ mới 15) cho ông Nguyễn Văn P đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng tại các mốc số 5 – 6 – 13 – 14 – 5 (thửa mới 12 – 2). Phần đất có tứ cận:
+ Hướng Đông giáp thửa 12 – 1; 12 - 2;
+ Hướng Tây giáp thửa 19 (16)
+ Hướng Nam giáp thửa 18, thửa 19 – 2;
+ Hướng Bắc giáp thửa 12 - 2.
(Đính kèm bản photo trích đo bản đồ địa chính khu đất)
Các đương sự có trách nhiệm đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.
3/ Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Mai Văn T1 và bà Nguyễn Thị Lệ T2 về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn P trả lại phần đất diện tích 152,3m2 tại chiết thửa 1098 (thửa mới 19 - 2), tờ bản đồ số 1 (tờ bản đồ mới 15). Đất tọa lạc tại ấp A, xã B, huyện E, tỉnh Vĩnh Long.
4/ Ông Nguyễn Văn P được hưởng các cây trồng gắn liền trên đất tại thửa cũ 1101 (thửa mới 12 – 2) gồm: 08 cây dừa, 01 cây mít do ông T1, bà T2 trồng.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về chi phí thẩm định giá, về án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 31/10/2016 ông Mai Văn T1 và bà Nguyễn Thị Lệ T2 có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xử bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn P, yêu cầu Tòa án công nhận phần đất tranh chấp có diện tích đo đạc thực tế 152,3m2 cho ông, bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm ông Mai Văn T1, bà Nguyễn Thị Lệ T2 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Ông Phạm Phi H đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn P không đồng ý theo yêu cầu kháng cáo của ông T1 và bà T2.
Các đương sự khác không có ý kiến gì.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự thống nhất diện tích đất tranh chấp ranh là 154,2m2.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn ông T1 và bà T2 phát biểu ý kiến. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của ông T1 và bà T2, sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận đơn phản tố của ông T1 và bà T2, công nhận phần đất tranh chấp 154,2m2 là của ông T1 và bà T2.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Văn P và ông Phạm Phi H phát biểu ý kiến: Qua các chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa hôm nay đã có đủ cơ sở xác định phần đất tranh chấp 145,2m2 là của ông Nguyễn Văn P. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn P.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Thẩm phán thụ lý vụ án và Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Xét nội dung và lý do kháng cáo của bị đơn là có cơ sở để chấp nhận một phần. Như nhận định án sơ thẩm tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa đúng đối tượng, chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Phan Thị N1. Vì xét quá trình sử dụng đất của nguyên đơn Nguyễn Văn P tại thửa 1101 (thửa mới 12), diện tích 1.100 m2 liền kế với thửa đất số 1098 (thửa mới 19), diện tích 1.250 m2 do cụ Phan Thị N1 đứng tên giấy chứng nhận được cấp năm 2003, cụ Niệm chết năm 2012. Bị đơn Lê Thị T2 cùng chồng là Mai Văn T1 là con gái và con rễ của cụ Phan Thị N1 đang quản lý, sử dụng phần diện tích thửa 1098 (thửa mới 19-2), diện tích 954,1 m2 nhưng chưa thực hiện các thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất, tại thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn P kiện bị đơn là cụ Phan Thị N1 chết còn có những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn là chị Nguyễn Thị L, chị Nguyễn Thị Lệ H2, anh Nguyễn Văn B3 và Nguyễn Lưu G.
Các đương sự chưa phân định rõ ràng ranh đất nên phát sinh tranh chấp khi cụ N1 chết. Nguyên đơn Nguyễn Văn P khởi kiện yêu cầu bị đơn Mai Văn T1 cùng vợ Nguyễn Thị Lệ T2 trả lại phần diện tích đất lấn ranh. Bị đơn không đồng ý theo khởi kiện của nguyên đơn vì cho rằng diện tích tranh chấp là của cụ Phan Thị N1 mẹ bị đơn cho nhưng bị đơn chưa thực hiện các thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất, do vậy bị đơn là ông Mai Văn T1 cùng vợ tên Nguyễn Thị Lệ T2 chỉ là 1 trong 4 người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ N1. Bản án sơ thẩm không xem xét hiện trạng sử dụng đất và quá trình kê khai xin cấp của nguyên đơn trong khi mẹ bị đơn là người đang quản lý sử dụng, mặc khác án sơ thẩm không buộc nguyên đơn trả giá trị cây trồng trên đất với số tiền 1.575.000 đ là chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho phía bị đơn là không khả thi trong giai đoạn thi hành án.
Do vậy, kháng cáo của bị đơn không đồng ý trả đất là có cơ sở chấp nhận một phần, nhưng phần kháng cáo yêu cầu công nhận diện tích tranh chấp thuộc thửa 1098 (thửa mới 19) của bị đơn T1 và T2 là chưa đủ cơ sở pháp lý xem xét, vì phần diện tích tranh chấp với nguyên đơn P, bị đơn chưa thực hiện các thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất và đây là di sản của cụ Phan Thị N1.
Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn thống nhất với bản án sơ thẩm. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cũng thừa nhận các cây trồng trên diện tích đất tranh chấp là của cụ N1 (mẹ của chị T2) trồng, một phần đất tranh chấp làm lối đi dân sinh trên hai mươi năm. Mặc khác cũng có cơ sở nguyên đơn ông P có đơn xin kê khai đăng ký quyền sử dụng đất chưa đúng trình tự vì nguyên đơn không phải là sử dụng đất theo quy định tại Điều 2 Luật đất đai năm 1993:
Người sử dụng đất ổn định, được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người làm nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp có đất sản xuất”.
Với nội dung nêu trên xét thấy bản án sơ thẩm có nhiều vi phạm chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự nhưng không cần thiết phải hủy án sơ thẩm mà cần sửa án sơ thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giữ nguyên hiện trạng. Các chi phí tố tụng khác đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên đề nghị: Áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa một phần bản án sơ thẩm.
Do sửa án sơ thẩm nên bị đơn không phải chịu án phí dân sự phúc thâm theo khoản 2 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016. Do sửa án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định lại nghĩa vụ chịu các chi phí tố tụng và án phí sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 26, 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.
Bản án về tranh chấp ranh đất số 35/2018/DSPT
Số hiệu: | 35/2018/DSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 06/03/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về