Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 62/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 62/2023/DS-PT NGÀY 25/05/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 25 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 147/2022/TLPT-DS ngày 04 tháng 10 năm 2022 về tranh chấp quyền sử dụng đất.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 74/2022/DS-ST ngày 21tháng 06 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện H bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 222/2022/QĐ-PT ngày 03 tháng 11năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Cụ Võ D; cư trú tại: Thôn P, xã A, huyện H, tỉnh BĐ.

Đại diện hợp pháp của cụ Võ D: Ông Võ Văn T; cư trú tại: Thôn P, xã A, huyện H, tỉnh BĐ là đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền ngày 23/11/2021).

- Bị đơn: Cụ Hồ K; cư trú tại: Thôn P, xã A, huyện H, tỉnh BĐ; có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Võ Văn T; cư trú tại: Thôn P, xã A, huyện H, tỉnh BĐ; có mặt.

2. Bà Võ Thị L; cư trú tại: Thôn P, xã A, huyện H, tỉnh BĐ; Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

3. Bà Võ Thị R; cư trú tại: Thôn Gi, xã A, huyện H, tỉnh BĐ; Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

4. Bà Võ Thị Tr; cư trú tại: Thôn Đ, xã A, huyện H, tỉnh BĐ; Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

5. Bà Võ Thị M; cư trú tại: Thôn P, xã A, huyện H, tỉnh BĐ; Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

6. Ông Võ Văn T1; cư trú tại: Xã S2, huyện X, tỉnh ĐN; Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

7. Ông Hồ Văn Nh; cư trú tại: Thôn P, xã A, huyện H, tỉnh BĐ; có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

8. Ông Hồ Văn Th; cư trú tại: Thôn P, xã A, huyện H, tỉnh BĐ; có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

9. Bà Hồ Thị Th1; cư trú tại: Thôn P, xã A, huyện H, tỉnh BĐ; có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

10. Bà Hồ Thị Nh1; cư trú tại: Thôn T, xã A, huyện H, tỉnh BĐ; Vắng mặt.

11. Bà Hồ Thị N; cư trú tại: Thôn Gi, xã A, huyện H, tỉnh BĐ; có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

12. Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh BĐ Đại diện hợp pháp: Ông Huỳnh Văn V – Phó Chánh Văn phòng HĐND&UBND là đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 20/02/2022) ; có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

13. Ủy ban nhân dân xã A, huyện H:

Đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Trọng H – Phó Chủ tịch UBND xã A là đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 20/02/2022) ; có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Người kháng cáo: Ông Võ Văn T là đại diện theo ủy quyền của cụ Võ D, đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, ông Võ Văn T trình bày:

Nguồn gốc thửa đất số 223, tờ bản đồ số 01(nay là số 07), diện tích 2.841m2 (trong đó có 300m2 đất ở và 2.541m2 đất vườn) tọa lạc tại Thôn P, xã A, huyện H, tỉnh BĐ đã được Nhà nước cân đối giao quyền sử dụng đất theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ cho hộ gia đình cụ Võ D. Tại thời điểm cân đối giao quyền hộ cụ Võ D có 06 nhân khẩu được nhận 5.218m2 đất, trong đó có thửa 223 nêu trên. Thửa đất này đã được Ủy ban nhân dân huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 00412.QSDĐ/C18 ngày 25/9/1993 cho hộ cụ Võ D.

Ranh giới giữa thửa đất số 223 và thửa đất số 261 tờ bản đồ số 01(nay là số 07) của hộ gia đình cụ Hồ K có một con mương thủy lợi hồ Hóc Sấu đi ngang qua, nhưng hộ gia đình cụ Hồ K đã lấn chiếm một phần đất thuộc thửa 223 của gia đình cụ để trồng cây.

Nay cụ Võ D khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc hộ gia đình cụ Hồ K phải trả lại cho hộ gia đình cụ toàn bộ diện tích đất đã lấn chiếm tại thửa đất số 223.

Bị đơn cụ Hồ K trình bày:

Năm 1993, hộ gia đình cụ được UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 99.QSDĐ/C8 ngày 24/6/1993 theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ. Tại thời điểm cân đối giao quyền sử dụng đất, hộ gia đình cụ có 07 nhân khẩu, được nhận 4.602m2 đất, trong đó có thửa đất số 261, tờ bản đồ số 01, diện tích 1.730m2 (300m2 đất ở và 1.430m2 đất vườn) tọa lạc tại Thôn P, xã A, huyện H, tỉnh BĐ.

Ranh giới giữa hai thửa đất số 223 của hộ gia đình cụ Võ D và thửa đất số 261 của hộ gia đình cụ là một đoạn mương nổi bằng đất của hồ thủy lợi Hóc Sấu đi ngang qua hai thửa đất. Năm 2012 mương nước được làm lại bằng bê tông nên đã thu hẹp diện tích con mương nhỏ hơn diện tích ban đầu, phần diện tích đất dôi ra sau khi làm lại con mương ông sử dụng trồng câu lâu năm, hoa màu không có ai tranh chấp. Cụ Võ D cho rằng hộ gia đình cụ lấn chiếm đất đất là không đúng, vì phần đất này là phần đất dôi ra sau khi làm lại mương nước bằng bê tông, không phải phần đất của thửa đất số 223 của hộ cụ Võ D.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Võ Văn T, Bà Võ Thị L, bà Võ Thị R, bà Võ Thị Tr, bà Võ Thị M, ông Võ Văn T1 trình bày: Thống nhất như lời trình bày là yêu cầu của cụ Võ D.

Ông Hồ Văn Nh, ông Hồ Văn Th, bà Hồ Thị Th1, bà Hồ Thị Nh1, bà Hồ Thị N trình bày: Thống nhất như lời trình bày và yêu cầu của Bị đơn cụ Hồ K.

Đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân xã Ân Đức ông Nguyễn Trọng H trình bày:

Hộ gia đình ông Võ D được giao quyền sử dụng thửa đất số 223, tờ bản đồ số 01 (nay là số 07), diện tích 2.841m2 (300m2 đất ở và 2.541m2 đất vườn) có 01 cạnh hướng Đông của thửa đất tiếp giáp với mương (đất, nổi) thủy lợi hồ Hóc Sấu đi qua. Hộ gia đình ông Hồ K được giao quyền sử dụng thửa đất số 261, tờ bản đồ số 01 diện tích 1.730m2 (300m2 đất ở và 1.430m2 đất vườn) có một cạnh hướng Tây của thửa đất tiếp giáp với con mương nói trên. Năm 2012, mương thủy lợi làm bằng bê tông nên thu hẹp lòng mương, kích thước bề rộng của mương thu hẹp khoảng 01 mét, nên diện tích đất mương thủy lợi đất còn lại đo đạc thực tế có diện tích 334,9m2, diện tích đất này thuộc quyền quản lý của Nhà nước, không nằm trong diện tích đất của thửa đất số 223 giao quyền cho ông Võ D hay thửa đất số 261 giao quyền cho ông Hồ K. Diện tích đất mương thủy lợi (đất) còn lại do ông K đã và đang canh tác, hiện trên đất đang tồn tại tài sản của ông Kén. Diện tích đo đạc thực tế thửa đất số 223 thiếu 175,3m2, thửa 261 thiếu 64,8m2. Nguyên nhân thiếu, thừa là do lúc trước đo đạc thủ công, nay đo vẽ bằng máy định vị (RTK) nên có sự sai số.

Đại diện Ủy ban nhân dân huyện Hoài Ân, ông Huỳnh Văn V trình bày:

Trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận QSD đất cho hộ ông Võ D, hộ ông Hồ K đúng theo quy định pháp luật. Diện tích đo đạc thực tế hai thửa đất số 223 và 261 thiếu so với diện tích được ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là so sai số trong quá trình đo đạc, đề nghị Hội đồng xét xử công nhận diện tích sử dụng thực tế hai thửa đất của ông Võ D, ông Hồ K. Diện tích đất (Khu B) 334,9m2 là diện tích đất mương thủy lợi (nổi) đất trước đây, diện tích đất này không nằm trong thửa đất số 223 hay thửa đất số 261 mà là diện tích đất của mương thủy lợi trước đây; diện tích đất này do Nhà nước quản lý không thuộc quyền sử dụng của ông Võ D hay ông Hồ K. Hiện tại diện tích 334,9m2 gia đình ông K quản lý, canh tác và trồng cây lâu năm trên đất.

Bản án dân sự sơ thẩm số: 74/2022/DS-ST ngày 21/06/2022 của Tòa án nhân dân huyện H đã xử:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất của nguyên đơn ông Võ D đối với bị đơn ông Hồ K.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của các bên đương sự.

Ngày 04/7/2023, ông Võ Văn T kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm, để buộc hộ gia đình cụ Hồ K phải trả lại cho hộ gia đình cụ Võ D 175,3m2 đất vườn, theo đúng diện tích ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ cụ Võ D.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về Tố tụng: Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên Thẩm phán đã vi phạm thời hạn xét xử.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Văn T. giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét kháng cáo của ông Võ Văn T HĐXX thấy rằng: Hộ gia đình cụ Võ D và hộ gia đình cụ Hồ K được Nhà nước cân đối giao quyền sử dụng đất theo Nghị định số: 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ. Hộ gia đình cụ Võ D được giao quyền sử dụng thửa đất số 223, tờ bản đồ số 01 (nay là số 07), diện tích 2.841m2 (trong đó có 300m2 đất ở và 2.541m2 đất vườn). Hộ gia đình cụ Hồ K được giao quyền sử dụng thửa đất số 261, tờ bản đồ số 01 diện tích 1.730m2 (trong đó có 300m2 đất ở và 1.430m2 đất vườn) cùng tờ bản đồ nói trên và hai hộ cũng đã được UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (BL: 44, 45). Theo đo đạc thực tế ngày 06/01/2023 thì thửa đất số 223 thiếu 175,3m2, thửa 261 thiếu 64,8m2. Tại Công văn số: 416/UBND-TN ngày 03/10/2017 của UBND huyện Hoài Ân và tại Biên bản lấy lời khai ngày 31/8/2018 đại diện theo ủy quyền của UBND xã A, huyện H đã xác định: Phần diện tích đất các bên đang tranh chấp thuộc thửa đất số hiệu 223, tờ bản đồ số 01, xã A. Thửa đất này, Hội đồng giao quyền sử dụng đất xã Ân Đức đã cân đối giao quyền cho hộ ông Võ D từ năm 1993 và được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 25/9/1993. (BL: 61;162). Nhưng tại Bản tự khai ngày 21/02/2022, đại diện theo ủy quyền của UBND xã A và của UBND huyện H lại cho rằng: Diện tích gia đình ông Hồ K đang sử dụng không nằm trong thửa đất 223 hay 261 mà diện tích đất này thuộc kênh mương do Nhà nước quản lý trực tiếp là UBND xã A, diện tích đất này không thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình ông Võ Dục (BL: 219-222). Tuy nhiên, nội dung Văn bản số: 348/UBND- TN ngày 25/4/2023 của UBND huyện H đã xác định: “ …Tuy nhiên, qua kiểm tra lại bản trích đo địa chính khu đất do Công ty cổ phần tư vấn Đ đo đạc ngày 05/01/2022 thì toàn bộ diện tích các bên đang tranh chấp có một phần diện tích đất nằm trong thửa đất số 223 của hộ ông Võ Dục…Tại Công văn số:

416/UBND-TN ngày 03/7/2017 của UBND huyện H không xác định 175,3m2  của ai, mà chỉ xác định một phần diện tích đất đang tranh chấp thuộc Nhà nước đã giao quyền sử dụng cho ông Võ D…về hồ sơ quản lý đối với phần diện tích đất các bên đang tranh chấp là không có…”. Nội dung Công văn số: 23/CV- UBND ngày 12/5/2023 của UBND xã Ân Đức, huyện H thống nhất như Văn bản số: 348/UBND-TN ngày 25/4/2023 của UBND huyện H và khi so sánh sơ đồ giữa hai thửa đất theo Bản đồ 299,1997 và các sơ đồ bản vẽ hiện trạng hai thửa đất theo Hệ tọa độ VN 2000 thì thấy rằng rõ ràng có một phần thửa đất số 223 nằm trong diện tích 334,9m2 đất mà hai hộ gia đình đang tranh chấp. Mặt khác, tại trang 55 Sổ đăng ký ruộng đất vào sổ ngày 06/01/1996 do UBND xã A cung cấp thể hiện cụ Võ D ký tên kê khai quyền sử dụng thửa đất 223, tại trang 102 cụ Hồ K ký tên kê khai quyền sử dụng thửa đất 261, các thửa đất được kê khai diện tích như trên (BL: 153, 154), nhưng không có chứng cứ thể hiện UBND xã A trực tiếp quản lý 334,9m2 đất mà hai hộ gia đình đang tranh chấp. Do đó, nguyên đơn nại cho rằng bị đơn có lấn chiếm đất của nguyên đơn là có căn cứ, lẽ ra cấp sơ thẩm phải chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc hộ cụ K phải trả lại cho hộ cụ D 175,3m2 đất nằm trong diện tích 334,9m2 đất mà hộ cụ Kén đang quản lý, sử dụng, nhưng cấp sơ thẩm lại không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, là làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của hộ gia đình cụ D.

[2] Từ những phân tích nêu trên xét thấy kháng cáo của ông Võ Văn T là có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận. Sửa bản án sơ thẩm, cụ thể: Buộc hộ cụ K phải hoàn trả cho hộ cụ D phần đất vườn có diện tích 175,3m2 (có vị trí, kích thước: Từ điểm 1 thẳng đến điểm 2 dài 39,75m; từ điểm 2 thẳng đến điểm 3 dài 3,09m; từ điểm 3 thẳng đến điểm 4 dài 2,60m; từ điểm 4 thẳng đến điểm 5 dài 1,87m; từ điểm 5 thẳng đến điểm 6 dài 5,16m; từ điểm 6 thẳng đến điểm 7 dài 15,47m; từ điểm 7 thẳng đến điểm 1 dài 16,08m) tại thôn Thôn P, xã A, huyện H, tỉnh BĐ ký hiệu B1 theo sơ đồ bản vẽ của Công ty cổ phần tư vấn Đ ngày 06/01/2023. Tuy nhiên. trên diện tích 175,3m2 đất này có một số tài sản của hộ gia đình cụ Kén theo Biên bản định giá ngày 06/01/2023 gồm: 01 hàng rào xây gạch, trụ bê tông có lưới B40 cao 1,2m, giá trị Sử dụng còn lại 20%, có giá trị:

30.248.791 đồng; 03 cây dừa có quả thu hoạch bình thường, có giá trị:

2.835.000 đồng; 01 cây dừa phát triển bình thường, có quả lần đầu, có giá trị:

525.000 đồng; 02 cây dừa có chiều cao > 2m chưa có quả, có giá trị: 500.000 đồng; 02 cây dừa có chiều cao < 2m chưa có quả, có giá trị: 300.000 đồng; 02 cây cau ta có quả, có giá trị: 600.000 đồng. Do đó, hộ gia đình cụ D phải có nghĩa vụ thanh toán cho hộ cụ K giá trị các tài sản nêu trên, tổng cộng là:

35.008.791 đồng.

[3] Về án phí, chi phí tố tụng khác:

[3.1] Về án phí: Do cụ K và cụ D là người cao tuổi nên theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì các cụ được miễn án phí.

[3.2] Về chi phí tố tụng khác: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản 03 lần, tổng cộng là: 18.582.000 đồng, mỗi bên phải chịu 9.291.000 đồng. ông Võ Văn T đã nộp thay cho cụ Võ D 11.500.000 đồng, cụ Hồ K đã nộp 7.000.000 đồng nên cụ K phải thanh toán lại cho ông T 2.291.000 đồng.

[4] Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng tại cấp phúc thẩm là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử. Ý kiến về việc giải quyết vụ án là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 158, 159,164,166 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông Võ Văn T. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số: 74/2022/DS-ST ngày 21/06/2022 của Tòa án nhân dân huyện H.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của cụ Võ D.

2. Buộc hộ gia đình cụ Hồ K phải trả lại cho hộ gia đình cụ Võ D phần đất vườn có ký hiệu B1, diện tích 175,3m2 (có vị trí, kích thước: Từ điểm 1 thẳng đến điểm 2 dài 39,75m; từ điểm 2 thẳng đến điểm 3 dài 3,09m; từ điểm 3 thẳng đến điểm 4 dài 2,60m; từ điểm 4 thẳng đến điểm 5 dài 1,87m; từ điểm 5 thẳng đến điểm 6 dài 5,16m; từ điểm 6 thẳng đến điểm 7 dài 15,47m; từ điểm 7 thẳng đến điểm 1 dài 16,08m) tọa lạc tại Thôn P, xã A, huyện H, tỉnh BĐ theo sơ đồ bản vẽ ngày 06/01/2023 của Công ty cổ phần tư vấn Đ (có sơ đồ bản vẽ kèm theo).

3. Hộ gia đình Cụ Võ D được sở hữu số tài sản gồm: 01 hàng rào xây gạch, trụ bê tông có lưới B40 cao 1,2m, giá trị Sử dụng còn lại 20%; 03 cây dừa có quả thu hoạch bình thường; 01 cây dừa phát triển bình thường có quả lần đầu;

02 cây dừa có chiều cao > 2m chưa có quả; 02 cây dừa có chiều cao < 2m chưa có quả; 02 cây cau ta có quả, gắn liền trên diện tích 175,3m2 đất do hộ gia đình cụ Hồ K trả lại cho hộ gia đình cụ Võ D và hộ gia đình cụ Võ D phải có nghĩa vụ thanh toán cho hộ gia đình cụ Hồ K 35.008.791 đồng giá trị các tài sản nêu trên.

4. Về án phí, chi phí tố tụng khác:

4.1 Về án phí: Cụ Võ D và cụ Hồ K được miễn toàn bộ án phí.

- Hoàn trả cho ông Võ Văn T 500.000 đồng tiền tạm ứng án phí (nộp thay cụ Võ D) đã nộp theo các Biên lai thu số: 00327 ngày 20/4/2016 và số: 0003483 ngày 29/9/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.

- Hoàn trả lại cho cụ Hồ K 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số: 0003457 ngày 27/7/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.

4.2 Về chi phí tố tụng khác: Cụ Hồ K phải thanh toán lại cho ông Võ Văn Tiến 2.291.000 đồng.

5. Quyền, nghĩa vụ thi hành án:

5.1 Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

5.2 Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 62/2023/DS-PT

Số hiệu:62/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;