Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 19/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 19/2022/DS-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 84/2021/TLST-DS ngày 25 tháng 10 năm 2021 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B; cùng địa chỉ: Số L611 Quốc lộ Z, Khu phố X, Phường C, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị - Có mặt.

- Bị đơn: Ông Phạm Như T và bà Phan Thị Kim L (Phan Thị L); cùng địa chỉ: Số T đường Hàm N, Khu phố Q, Phường W, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện ngày 06/12/2019, biên bản hòa giải ngày 12/5/2020 và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B trình bày:

Ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Trị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CT 928973 ngày 19/11/2020, tại thửa đất số 192, tờ bản đồ số 21, diện tích 99m2; địa chỉ thửa đất: Kiệt 50 đường Hàm N, khu phố Q, Phường W, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị sát nhà ông T, bà L.

Quá trình sử dụng đất, ông Phạm Như T và bà Phan Thị Kim L đã làm quán xây dựng lấn chiếm sang phần diện tích đất của ông C, bà B. Tuy ông C, bà B đã nhiều lần trực tiếp đến nhà ông T, bà L trao đổi, bàn bạc yêu cầu ông T, bà L tháo dỡ phần diện tích xây dựng lấn chiếm để trả lại cho ông C, bà B, nhưng ông T, bà L không đồng ý. Tranh chấp đất giữa ông C, bà B với ông T, bà L cũng đã được UBND Phường 1, thành phố Đông Hà tiến hành hòa giải nhưng không có kết quả. Theo kết quả đo đạc của Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đông Hà ngày 08/12/2021, thì ông T, bà L đã xây quán lấn chiếm sang phần diện tích đất của gia đình ông C, bà B về hướng Tây với diện tích 07m2, về hướng Nam với diện tích 01m2.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Phạm Như T và bà Phan Thị Kim L phải tháo dỡ toàn bộ phần diện tích đã xây dựng lấn chiếm về hướng Tây với diện tích 07m2 đất để trả lại cho ông C, bà B. Còn phần ông T, bà L xây dựng lấn chiếm về hướng Nam với diện tích 01m2, ông C, bà B rút không yêu cầu giải quyết.

2. Tại đơn trình bày ý kiến ngày 10/11/2021, biên bản hòa giải ngày 18/01/2021, bị đơn ông Phạm Như T và bà Phan Thị Kim L trình bày:

Năm 1996, mẹ tôi tức là bà Nguyễn Thị Đ có chuyển nhượng cho bà Nguyễn Lệ B lô đất rộng 06m, dài 16m, phía Đông giáp nhà ông Q, ông G, ông L; phía Bắc giáp đường quy hoạch; phía Tây và phía Nam giáp với đất của gia đình bà Nguyễn Thị Đ (lúc này chưa có mương thủ lợi chạy dọc theo lô đất của bà B và các hộ ông Q, ông G và ông L). Căn cứ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Đ được UBND tỉnh cấp ngày 18/9/2000 do ông Lê Hữu Phúc, phó Chủ tịch UBND tỉnh ký.

Do đất ông C, bà B để lâu ngày không xây dựng nên khi gia đình ông L xây nhà tôi có nhắn cho gia đình ông C, bà B về để xem lại đất đai tránh tranh chấp về sau, nhưng gia đình ông C, bà B không đến dẫn đến tình trạng cấp đất chồng chéo làm cho thửa đất của ông C, bà B không còn nguyên trạng như lúc bà Nguyễn Thị Đ chuyển nhượng đất cho gia đình ông C, bà B.

Ngày 06/01/2014, tôi (Phan Thị Kim L) được UBND thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BP 071380, thửa đất số 139 (123a), tờ bản đồ số 21, diện tích 330m2, đất ở đô thị tại khu phố 4, Phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị và tôi đã xây dựng nhà ở ổn định. Khi làm nhà bà L, ông T đã liên lạc cho ông C, bà B xuống thực địa để kiểm tra cụ thể nhưng ông C, bà B không xuống. Vì vậy, ông T, bà L đã xây dựng thu lại công trình phía sau tiếp giáp đất của ông C, bà B chỉ còn lại 3,5m và tiến hành xây dựng móng nhà có sự chứng kiến của gia đình ông C, bà B nên ông T, bà L không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông C, bà B.

3. Về nguồn gốc của các thửa đất tranh chấp:

Đối với đất ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B: Vào năm 1996, sau khi nhận chuyển nhượng đất từ bà Nguyễn Thị Đ (mẹ của bà Phan Thị Kim L) với diện tích 96m2 để làm nhà ở. Năm 2003, ông C, bà B làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được UBND thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà) cấp đất cho hộ gia đình ông C, bà B với diện tích 99m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: W 830815 ngày 27/01/2003, thửa đất số 123a, tờ bản đồ số 21, diện tích 99m2 đất ở; địa chỉ thửa đất: Khu phố 4, Phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Ngày 19/11/2020, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Trị đã cấp đổi lại theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 928973 tại thửa số 192, tờ bản đồ số 21, diện tích 99m2; địa chỉ thửa đất: Khu phố 4, Phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị mang tên ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B, sau khi được cấp đổi, diện tích, kích thước của thửa đất không thay đổi.

Đối với đất của bà Phan Thị Kim L: Ngày 03/6/2008 được UBND thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa số 123a, tờ bản đồ số 21, diện tích 330m2; địa chỉ thửa đất: Khu phố 4, Phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị mang tên Phan Thị L theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Al 105331. Ngày 06/01/2014 đã được UBND thành phố Đông Hà cấp đổi lại theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 071380, thửa số 193 (123a), tờ bản đồ số 21, diện tích 330m2; địa chỉ thửa đất: Khu phố 4, Phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị mang tên Phan Thị Kim L, sau khi được cấp đổi, không có thay đổi gì về diện tích, kích thước. Nguồn gốc của thửa đất là do bà Nguyễn Thị Đ (mẹ đẻ) tặng cho.

4. Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ và sơ đồ hiện trạng ranh giới thửa đất, thì phần diện tích đất đang tranh chấp được xác định:

Đối với phần diện tích đất đang tranh chấp về hướng Tây hiện ông T, bà L đã xây tường nhà cấp 4 dài 10,16m và tường rào dài 5,89 m, đang chiếm hữu, sử dụng với diện tích 07m2. Có kích thức, vị trí, đặc điểm cụ thể như sau:

- Phía Đông giáp đất ông C, bà B, có chiều dài 16,05m (4,53m + 5,63m + 5,89m) - Phía Tây giáp đất bà Phan Thị Kim L, có chiều dài 16.01m;

- Phía Nam giáp phần đất còn lại của ông C, bà B, có chiều rộng 0,13m;

- Phía Bắc giáp Kiệt 50 đường Hàm Nghi (đường giao thông) có chiều rộng 0,62m.

Toàn bộ phần diện tích 07m2 đất mà ông T, bà L đã xây tường nhà, tường rào và mái che đều nằm trong phần diện tích đất đã được Nhà nước cấp cho ông C, bà B theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 928973 ngày 19/11/2020 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Trị.

5. Y kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo, thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, phía bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 244 BLTTDS, Điều 166, 170, 203 Luật Đất đai năm 2013, Điều 175 Bộ luật Dân sự 2015 tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn ông Phạm Như T và bà Phan Thị Kim L tháo dở một phần công trình đã xây dựng (gồm tường rào và ngôi nhà cấp 4) trả lại diện tích đất đã lấn chiếm phía trước là 07m2; đình chỉ đối với phần yêu cầu khởi kiện buộc ông Phạm Như T và bà Phan Thị Kim L trả lại phần diện tích đất đã lấn chiếm phía sau là 01m2.

- Về án phí: Buộc bị đơn phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: [1]. Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, do đó Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, bị đơn ông T, bà L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 3, nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự là đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông C, bà B yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông T, bà L phải tháo dỡ tường nhà, tường rào, mái che xây dựng lấn chiếm trên phần diện tích đất của ông C, bà B. Còn ông T, bà L, không chấp nhận tháo dỡ để trả lại đất cho ông C, bà B. Sự việc tranh chấp đã được UBND Phường 1 hòa giải nhưng không thành nên ông C, bà B khởi kiện. Do đó, về quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là “Tranh chấp quyền sử dụng đất” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà theo quy định tại khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 203 Luật đất đai.

[3]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông C, bà B yêu cầu bị đơn ông T, bà L phải tháo dỡ toàn bộ tường nhà, tường rào, mái che đã xây dựng lấn chiếm về hướng Tây với diện tích 07m2 đất để trả lại đất cho ông C, bà B, xét thấy:

Năm 1996, bà Nguyễn Thị Đ đã chuyển nhượng cho bà Nguyễn Lệ B lô đất có diện tích 96m2, tại thời điểm nhận chuyển nhượng bà Nguyễn Thị Đ chưa có Giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất đến năm 2000, bà Nguyễn Thị Đ mới được UBND tỉnh Quảng Trị cấp đất theo Quyết định số 1551/QĐ-UB ngày 18/9/2000 với diện tích 774,0m2. Sau khi bà Đ được cấp đất thì đến năm 2003 ông C, bà B làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Căn cứ vào đơn xin chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng đất của bà B và bà Đ lập ngày 29/9/1996, đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 31/12/2002, đơn xin tách thửa ngày 22/12/2002, Biên bản xét duyệt Hội đồng đăng ký đất đai ngày 04/01/2003 và Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất năm 2000 (biên bản xác định phần diện tích đất bà Đ chuyển nhượng là 99,1m2). Do đó, ngày 27/01/2003, UBND thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà) đã cấp đất cho hộ ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: W 830815 ngày 27/01/2003 tại thửa số 123a, tờ bản đồ số 21, diện tích 99m2 đất ở; địa chỉ thửa đất: Khu phố 4, Phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Đến ngày 19/11/2020, trên cơ sở văn bản cam kết về tài sản của các thành viên trong hộ gia đình lập ngày 13/11/2020, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Trị đã cấp đổi lại theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 928973 tại thửa số 192, tờ bản đồ số 21, diện tích 99m2; địa chỉ thửa đất: Khu phố 4, Phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị mang tên ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B. Sau khi được cấp đổi, phần diện tích, kích thước của thửa đất không thay đổi. Chính vì vậy, thửa số 192, tờ bản đồ số 21, diện tích 99m2; tại địa chỉ: Khu phố 4, Phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B.

Theo Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất theo hiện trạng sử dụng đất được UBND Phường 1, thị xã Đông Hà (nay là thành phố Đông Hà) lập vào năm 2002 đã được các hộ liền kề trong đó có bà Nguyễn Thị Đ và bà Phan Thị Kim L (Phan Thị L) ký xác nhận cho thấy: Thửa đất mà ông C, bà B được UBND thị xã Đông Hà cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 27/01/2003 và Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Trị cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 19/11/2020 có diện tích, kích thước đúng với ranh giới, mốc giới theo hiện trạng sử dụng đất lập năm 2002, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà ông C, bà B được cấp cho thấy, giáp với thửa đất của ông C, bà B về phía Đông là mương nước có chiều rộng giáp với đường khu vực là 0,7m, và chiều rộng phía sau là 0,4m.

Căn cứ vào Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ lập ngày 08/12/2021 và sơ đồ hiện trạng ranh giới thửa đất lập ngày 22/12/2021 cho thấy: Năm 2014, ông T, bà L đã xây dựng quán mái lợp tôn thuộc loại nhà cấp IV để kinh doanh, không có Giấy phép xây dựng và đã xây dựng không đúng với phần diện tích đất được nhà nước giao, ông T, bà L xây dựng tường nhà, tường rào và mái che về phía Đông lấn sang phần diện tích đất phía Tây của ông C, bà B với diện tích 07m2, cụ thể: Phần xây dựng lấn chiếm có vị trí, đặc điểm như sau:

- Phía Đông giáp phần đất còn lại của ông C, bà B, có chiều dài 16,05m (4,53m + 5,63m + 5,89m);

- Phía Tây giáp đất bà Phan Thị Kim L, có chiều dài 16.01m;

- Phía Nam giáp phần đất còn lại của ông C, bà B, có chiều rộng 0,13m;

- Phía Bắc giáp Kiệt 50 đường Hàm Nghi (đường giao thông), có chiều rộng 0,62m.

Việc ông T, bà L xây dựng tường nhà, tường rào và mái lấn chiếm sang phần diện tích đất mà Nhà nước đã giao cho ông C, bà B có quyền sử dụng là đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông C, bà B, ảnh hưởng đến việc sử dụng đất và giá trị của thửa đất mà Nhà nước đã giao cho ông C, bà B sử dụng và ảnh hưởng đến vấn đề quy hoạch của Nhà nước về việc sử dụng đất.

Quá trình giải quyết vụ án ông T, bà L cho rằng: Do đất ông C, bà B để đất lâu ngày không xây dựng nên khi gia đình ông Long xây nhà, gia đình ông C, bà B không đến kiểm tra dẫn đến tình trạng nhà nước cấp đất chồng chéo làm cho thửa đất của ông C, bà B không còn nguyên trạng như lúc bà Nguyễn Thị Đ giao đất cho gia đình bà B là không có căn cứ.

Tại công văn số 204/CVĐH-KTĐC ngày 19/4/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đông Hà cho biết: Theo kết quả cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cũng như khi được cấp đổi thì ranh giới quyền sử dụng đất giữa ông C, bà B với bà L là tiếp giáp, trùng nhau, không chồng lấn lên nhau. Đối với việc thể hiện kích thước mương thủy lợi: Qua kiểm tra dữ liệu số hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thấy, kích thước mương nước giáp đường rộng 0,7m và rông 0,4m về phía sau, như kích thước đã thể hiện trên sơ đồ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông C, bà B. Đoạn sau cùng của mương nước có kích thước 0,3m. Như vậy, việc thể hiện mương nước rộng 0,3m tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 071380 cấp cho bà Phan Thị Kim L là sai sót do biên tập.

Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B, buộc bị đơn ông Phạm Như T và bà Phan Thị Kim L phải tháo dỡ toàn bộ phần diện tích đất xây dựng lấn chiếm để trả lại cho ông C, bà B với diện tích 0,7m2 đất.

[4]. Đối với yêu cầu của nguyên đơn ông C, bà B khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông T, bà L tháo dỡ phần diện tích đã xây dựng lấn chiếm về hướng Nam 01m2. Tại phiên tòa, ông C, bà B rút không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử đình chỉ không xem xét giải quyết.

[5]. Về chi phí thẩm định: Để đảm bảo cho yêu cầu khởi kiện của mình, nguyên đơn ông C, bà B đã chi phí toàn bộ cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ số tiền 2.212.000 đồng và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận. Vì vậy, cần buộc bị đơn ông T, bà L phải hoàn lại chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ cho ông C, bà B số tiền 2.212.000 đồng.

[6]. Về án phí: Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 158, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 166, khoản 1 Điều 170 và Điều 203 Luật đất đai; điểm a khoản 1 Điều 24; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B; buộc bị đơn ông Phạm Như T và bà Phan Thị Kim L phải tháo dỡ tường nhà, tường rào và mái che đã xây dựng lấn chiếm để trả lại cho ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B phần diện tích 07m2 đất (Theo sơ đồ hiện trạng ranh giới thửa đất do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị lập ngày 22/12/2021).

Vị trí, kích thước tường nhà, tường rào và mái che đã xây dựng lấn chiếm với diện tích 0,7m2 đất phải tháo dỡ có đặc điểm cụ thể như sau:

- Phía Đông giáp phần đất còn lại của ông C, bà B, có chiều dài 16,05m (4,53m + 5,63m + 5,89m);

- Phía Tây giáp đất bà Phan Thị Kim L, có chiều dài 16.01m;

- Phía Nam giáp phần đất còn lại của ông C, bà B, có chiều rộng 0,13m;

- Phía Bắc giáp Kiệt 50 đường Hàm Nghi (đường giao thông), có chiều rộng 0,62m.

2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B (do nguyên đơn ông C, bà B rút một phần yêu cầu khởi kiện) đối với phần diện tích đất tranh chấp 01m2 đất về hướng Nam.

3. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Buộc ông Phạm Như T và bà Phan Thị Kim L phải hoàn trả cho ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B số tiền 2.212.000 đồng (Hai triệu hai trăm mười hai nghìn đồng).

4. Về án phí:

- Buộc ông Phạm Như T và bà Phan Thị Kim L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho ông Nguyễn C và bà Nguyễn Lệ B số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: CC/2021/0000025 ngày 25/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

5. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 19/2022/DS-ST

Số hiệu:19/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;