Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 180/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 180/2023/DS-PT NGÀY 12/04/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 12 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án dân sự thụ lý số 601/2022/TLPT-DS ngày 01 tháng 12 năm 2022 về việc “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy GCN QSDĐ”.

1/ Nguyên đơn:

1.1/ Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1975. (vắng mặt)

1.2/ Ông Võ Văn M, sinh năm: 1969. (có mặt) Cùng địa chỉ: Ấp Phú Tân, xã Phú Đông, huyện N, tỉnh Đ.

Bà H ủy quyền cho Ông M tham gia tố tụng (Văn bản ủy quyền ngày 12/10/2018).

2/ Bị đơn: Bà Phạm Thị N, sinh năm: 1957. (vắng mặt) Địa chỉ: số 48, đường 25B, khu phố 2, phường Cát Lái, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của bà N: ông Lê Huy H, sinh năm: 1984 (Văn bản ủy quyền ngày 29 tháng 10 năm 2019). (có đơn xin xử vắng mặt) Địa chỉ: Đường 25B, khu hành chính N, tỉnh Đ.

3/ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1/ Ủy ban nhân dân huyện N, tỉnh Đ. (có đơn xin xử vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kỉện ngày 27/11/2018, các lờỉ khai có tại hồ sơ và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Võ Văn M và bà Nguyễn Thị H do ông M đại diện trình bày:

Năm 2008 Vợ chồng ông nhận chuyển nhượng lại từ bà Nguyễn Thị Mỹ T trọn thửa đất số 32, tờ bản đồ số 30, xã Phú Đông (thửa mới là thửa đất 77, tờ bản đồ số 49) diện tích 2000m2 và được Cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh trang 4 công nhận việc chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông và bà T. Khi nhận chuyển nhượng đất của bà T có xem đất và có địa chính xã ra đo đạc và cắm cọc mốc, đất có ranh giới rõ ràng. Mục đích sử dụng là đất trồng cây lâu năm, nhưng vợ chồng ông cũng không trồng cây gì trên đất nhưng vẫn thường xuyên lui tới trông coi đất.

Khi nhà nước có chủ trương cấp đổi giấy CN QSDĐ, vợ chồng ông đi kê khai cấp đổi nhưng không được, qua kiểm tra thì phát hiện do bà N là người sử dụng đất giáp ranh lấn chiếm đất của vợ chồng ông, diện tích khoảng hơn 400m2 và được Ủy ban nhân dân huyện N cấp giấy chứng nhận cho bà N, cấp chồng lên phần đất đã được cấp giấy chứng nhận cho bà T đã chuyển quyền sử dụng sang vợ chồng ông.

Do không thể gặp bà N giải quyết, nên vợ chồng ông khiếu nại ra Ủy ban xã Phú Đông nhưng bà N vắng mặt không tham gia hòa giải, nên ông tiếp tục làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo như sơ đồ chồng ghép giữa BĐĐC thành lập năm 1997 và BĐĐC thành lập năm 2008 số 1253/2021 ngày 06/4/2021 do Văn Phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ - Chi nhánh huyện N thực hiện thì phần đất của bà N được UBND huyện N cấp giấy chứng nhận QSDĐ chồng lên phần đất của vợ chồng ông có diện tích 492m2, (trong đó thửa 76 lấn chiếm 452m2, thửa 87 lấn chiếm 40m2). Theo đo vẽ thì phần đất còn lại của vợ chồng ông diện tích chỉ còn 1.558m2, thiếu 442m2 nên ông chỉ yêu cầu bà N phải trả lại vợ chồng ông diện tích đất lấn chiếm là 442m2 thuộc một phần thừa 76, 87, tờ 49, xã Phú Đông, huyện N. Nếu không trả được đất thì thanh toán bằng giá trị tiền theo giá đã thẩm định.

Trong quá trình Tòa án làm việc, ông có yêu cầu đo đạc lại để bà N trả lại ông đúng diện tích 442m2 trong phần diện tích lấn chiếm 492m2 nhưng ông xin rút yêu cầu đo đạc lại. Ông thống nhất với các bản vẽ và chứng thư thẩm định giá mà Tòa án đã thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án, ông không có thắc mắc khiếu nại gì.

Do ông không thể xác định được ranh giới diện tích đất 442m2 để yêu cầu bà N trả lại. Nên ông thay đổi yêu cầu khởi kiện là rút phần yêu cầu khởi kiện về hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Phạm Thị N được UBND huyện N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 117161 và BD 117162 cấp cùng ngày 26/10/2010 đối với phần đất lấn chiếm của vợ chồng ông diện tích 442m thửa đất sô 76, 87, tờ 49, xã Phú Đông, huyện N. Ông đồng ý giao cho bà N được quản lý, sử dụng diện tích 492m2 và thanh toán lại cho vợ chồng ông bằng giá trị tiền đối với diện tích lấn chiếm còn thiếu của vợ chồng ông là 442m2 theo như giá trị đã Thẩm định giá của Công ty cổ phần thẩm định giá Đ là 800.000đ/m2 x 442m2 = 353.600.000 đồng.

Trong các buổi làm việc ngày 11/11/2020 và ngày 23/12/2021, bị đơn bà Phạm Thị N do ông Lê Huy H đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngun gốc đất của bà N: Vào năm 2010, bà N nhận chuyển nhượng của ông Trần Võ C phần diện tích đất tại thửa 22, 19, 25 tờ 29, 30 xã Phú Đông tương ứng vớỉ thửa mới là thửa 76 diện tích 3.323m2, thửa 87 diện tích 3537m2, thửa 88 diện tích 112m2 cùng tờ bản đồ số 49 (bản đồ thành lập năm 2008 xã Phú Đông) đã được UBND huyện N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 117161, BD 117162 và BD 117163 cấp cùng ngày 26/10/2010. Mục đích sử dụng đất là đất trồng cây lâu năm và đất thổ. Khi cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho bà N thì UBND xã Phú Đông có lập biên bản kiểm tra hiện trạng thể hiện diện tích đất tăng 628m2 do có sự chênh lệch 2 lần thành lập bản đồ, thực địa ranh giới rõ ràng, hình thể không thay đổi. Từ ngày nhận chuyển nhượng cho đến nay thì bà N quản lý sử dụng bằng cách trồng lúa nước, ranh giới giữa các thửa đất được giới hạn bằng các bờ ruộng.

Bà N không lấn chiếm đất của vợ chồng bà H, ông M nên không đồng ý yêu cầu khởi kiện của vợ chồng bà H ông M.

Hiện bà N có chồng nhưng tài sản tranh chấp là tài sản riêng của bà N nên đề nghị Tòa án không đưa chồng bà N tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Ông Huy thống nhất với các bản vẽ và chứng thư thẩm định giá mà Tòa án đã thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án, ông không có thắc mắc khiếu nại gì.

Trong quá trình làm việc, tại văn bản số 6328/UBND-TP ngày 20 tháng 8 năm 2019 và văn bản số 6583/UBND-TP ngày 29/8/2019, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là UBND huyện Nhơn trạch trình bày:

Về nguồn gốc đất của bà H - ông M có nguồn gốc là của bà Lê Thị G đã được UBND huyện N cấp giấy chứng nhận QSD đất số O 822060 gồm 03 thửa: thửa đất số 22 diện tích 9.500m2 tờ bản đồ số 29 xã Phú Đông thành lập năm 1997 và thửa đất số 19 diện tích 8126m2, thửa số 25 diện tích 118m2 thuc tờ bản đồ số 30 xã Phú Đông thành lập năm 1997. Đối với thửa đất số 19, ngày 03/6/2005, bà G chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn Chương thửa đất số 32 (tách ra từ thửa 19) với diện tích 2000m2 đất trồng lúa, tờ bản đồ số 30 xã Phú Đông và được UBND huyện N cấp giấy chứng nhận QSDĐ số AC 890661 ngày 22/7/2005 cho ông Chương. Ngày 06/12/2005, ông Chương xin chuyển mục đích sử dụng đất trồng cây lâu năm với diện tích 2000m2 và được UBND huyện N cho phép theo Quyết định số 1424/QĐ-UBND ngày 06/12/2005.

Ngày 12/02/2006, ông Chương chuyển nhượng toàn bộ diện tích 2000m2 tha 32 đất trên cho bà Nguyễn Thị Mỹ T và được UBND huyện N cấp giấy CNQSDĐ cho bà T số AĐ 062515 ngày 27/4/2006. Ngày 03/4/2008 bà T chuyển toàn bộ diện tích 2000m2 tha 32 cho bà Nguyễn Thị H và được Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện N ký xác nhận và điều chỉnh trang 4 giấy chứng nhận QSD đất số AĐ 062515 ngày 27/4/2008. Qua rà soát hồ sơ nhận thấy việc UBND huyện N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Chương, ông Chương chuyển nhượng lại cho bà T và bà T chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị H đối với diện tích đất 2000m2 tha số 32 (thửa cũ 19) tờ bản đồ số 30 xã Phú Đông là đúng trình tự thủ tục.

Về nguồn gốc đất của bà Phạm Thị N: Ngày 31/8/2007, bà Lê Thị G chuyển nhượng QSD đất sang cho ông Trần Võ C đối với thửa đất số 19 (phần còn lại của thửa 19 có diện tích 6126m2) và diện tích 118 m2 đất ONT thuộc thửa số 25 cùng tờ bản đồ số 30 xã Phú Đông và được Văn phòng Đăng ký QSDĐ huyện N ký xác nhận và điều chỉnh trang 4 giấy chứng nhận QSDĐ số O 822060 ngày 26/9/2007 sang cho ông C. Tiếp đó ông C chuyển mục đích sử sụng đất thửa 19 có diện tích 6126m2 đất lúa sang đất trồng cây lâu năm theo Quyết định số 653/QĐ- UBND ngày 25/7/2007 của UBND huyện.

Ngày 23/8/2010, ông C chuyển nhượng QSDĐ sang cho bà Phạm Thị N thửa 22, 19, 25 tờ bản đồ địa chính số 29, 30 xã Phú Đông thành lập năm 1997 tương ứng với thửa đất số 76 diện tích 3.223m2 đt trồng cây lâu năm; thửa đất số 87 diện tích 3.537m2 đất trồng cây lâu năm và thửa số 88 diện tích 112m2 đất ONT tờ bản đồ số 49 thành lập năm 2008 xã Phú Đông và được UBND huyện N cấp giấy CNQSD đất số BD 117161, BD 117162, BD 117163 ngày 26/10/2010 cho bà N.

Qua rà soát, nhận thấy ông C nhận chuyển nhượng đất từ bà G đối với thửa đất số 19 và thửa 25 tờ bản đồ số 30 xã Phú Đông là đúng quy định trình tự thủ tục. Riêng đối với hồ sơ chuyển nhượng QSDĐ từ ông Trần Võ C sang cho bà Phạm Thị N đối với thửa đất số 22, 19, 25 tờ bản đồ số 29, 30 xã Phú Đông tương ứng với thửa đất 76, 87 và 88 tờ bản đồ số 49 thành lập năm 2008 được UBND huyện thực hiện theo trình tự thủ tục. Tuy nhiên, qua xem xét hợp đồng chuyển nhượng thửa đất 22, 19, 25 tờ bản đồ Địa chính số 29, 30 xã Phú Đông thành lập năm 1997 tương ứng với thửa 76 (diện tích 3.223m2), thửa đất số 87 (diện tích 3.537m2) và thửa số 88 (diện tích 112m2) tờ bản đồ số 49 xã Phú Đông chưa phù hợp do thửa đất số 22, bà Lê Thị G đã chuyển nhượng QSDĐ cho bà Nguyễn Thị Ngọc A diện tích 4.000m2 và chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Kim H diện tích 5.500m2.

Đi với hồ sơ cấp giấy CNQSDĐ cho bà N, ngày 24/8/2010 UBND xã Phú Đông có biên bản kiểm tra hiện trạng theo đó thể hiện diện tích đất tăng 628m2 là do sai sót giữa bản đồ cũ và mới, đất không tranh chấp, có ranh giới rõ ràng, hình thể không thay đổi so với thực tế. Qua chồng ghép bản đồ địa chính xã Phú Đông thành lập năm 1997 và bản đồ năm 2008 xã Phú Đông (Nội nghiệp chưa đối soát thực địa), nhận thấy thửa đất số 76 và 86 tờ bản đồ số 49 bản đồ xã Phú Đông thành lập năm 2008 của bà Phạm Thị N có 1 phần diện tích chồng lấn với thửa đất số 32 tờ bản đồ số 30 xã Phú Đông thành lập năm 1997 của bà Nguyễn Thị H.

Ngoài ra UBND huyện Nhơn trạch không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 17/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ quyết định:

Căn cứ vào khoản 9 Điều 26; khoản 4 Điều 34; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng Hnh chính;

Áp dụng khoản 1 Điều 203 Luật đất đai 2013; Điều 166, Điều 169, Điều 175 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn M, bà Nguyễn Thị H đối với bị đơn bà Phạm Thị N về “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSD đất”.

Giao cho bà Phạm Thị N được quyền sử dụng phần diện tích đất 492m2 thuộc một phần thửa số 32 tờ bản đồ số 30 xã Phú Đông thuộc quyền sử dụng của bà H-ông M (Thửa mới: số 76 diện tích 452m2 và một phần thửa số 87 diện tích 40m2 tờ bản đồ số 49 xã phú Đông) theo Sơ đồ chồng ghép giữa bản đồ địa chính thành lập năm 1997 và BĐĐC thành lập năm 2008 số 1253/2021 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh N thực hiện ngày 06/4/2021 đã được UBND huyện N cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho bà Phạm Thị N theo giấy chứng nhận QSDĐ số BD 117161 và BD 117162 cấp ngày 26/10/2010.

Buộc bà Phạm Thị N phải thanh toán lại giá trị QSDĐ tương ứng diện tích 442m2 x 800.000đ/m2 = 353.600.000 đồng (Ba trăm năm mươi ba triệu sáu trăm nghìn đồng) cho ông M - bà H.

Sau khi án có hiệu lực pháp luật, ông M - bà H phải liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh, cấp đổi lại giấy chứng nhận QSDĐ tương ứng với phần diện tích đất còn lại (trừ phần diện tích 492m2 đã giao cho bà Phạm Thị N) ở thửa đất số 32, tờ bản đồ số 30 Xã Phú Đông (thửa mới số 77 tờ bản đồ số 49) theo thực tế sử dụng.

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H - ông Võ Văn M đối với bị đơn bà Phạm Thị N về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 117161 và số BD 117162 được UBND huyện N cấp ngày 26/10/2010 cho bà Phạm Thị N.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm, lãi suất chậm thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.

- Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Lê Huy H đại diện cho bà Phạm Thị N kháng cáo cho rằng phần đất 442m2 theo án sơ thẩm xác định của ông M bà H, xử buộc bà N phải trả lại giá trị 442m2 bng 353.600.000 đồng cho ông M bà H là không đúng, nên kháng cáo yêu cầu xem xét lại. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Lê Huy H có đơn xin xét xử vắng mặt và yêu cầu xem xét theo đơn kháng cáo của ông, nên HĐXX xét xử vắng mặt đối với ông Lê Huy H – đại diện cho bà N.

- Tại tòa, ông Võ Văn M đồng thời đại diện cho bà Nguyễn Thị H, không đồng ý với kháng cáo của bà Phạm Thị N, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

- Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị không chấp nhận kháng cáo của ông H đại diện cho bà N, giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đối với đơn kháng cáo của ông Lê Huy H đại diện cho bà Phạm Thị N kháng cáo, được làm và nộp trong thời hạn luật định nên đây là kháng cáo hợp lệ. [2] Xét về nội dung vụ án thì thấy:

- Đối với phần đất mà nguyên đơn ông Võ Văn M – bà Nguyễn Thị H tranh chấp với bị đơn bà Phạm Thị N, có nguồn gốc là của bà Lê Thị G chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Chương 2.000m2 đất trồng lúa tại thửa số 32 (được tách ra từ thửa số 19) tờ bản đồ số 30 tại xã Phú Đông, huyện N, tỉnh Đ. Ngày 12/02/2006, ông Chương chuyển nhượng toàn bộ diện tích 2.000m2 trên cho bà Nguyễn Thị Mỹ T, được UBND huyện N cấp GCN QSDĐ cho bà T số AD9 062515 ngày 27/4/2006; Ngày 03/4/2008 thì bà T lập hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích 2.000m2 đất nêu trên (theo thửa mới là thửa số 77 tờ bản đồ số 49) cho bà Nguyễn Thị H, được Văn phòng Đăng ký QSDĐ chi nhánh huyện N ký xác nhận và điều chỉnh trang 4 trên GCN QSDĐ sang tên bà Nguyễn Thị H ngày 27/4/2008.

- Đối với phần đất của bà Phạm Thị N sử dụng cũng có nguồn gốc của bà Lê Thị G chuyển nhượng cho ông Trần Võ C tổng diện tích là 6.244m2 gồm một phần thuộc thửa số 19 (phần còn lại sau khi chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Chương) có diện tích 6.126m2 và một phần thuộc thửa số 25 tờ bản đồ số 30 có diện tích 118m2. Ngày 23/8/2010, ông C chuyển nhượng QSDĐ cho bà Phạm Thị N gồm các thửa 22, 19, 25 tờ bản đồ số 29, 30 xã Phú Đông lập năm 1997 (tương ứng là thửa 76 diện tích 3.223m2 đất trồng cây lâu năm; thửa 87 diện tích 3.537m2 đất trồng cây lâu năm; thửa 88 diện tích 112m2 đt ONT, cùng thuộc tờ bản đồ số 49 lập năm 2008 xã Phú Đông) và được UBND huyện N cấp GCN QSDĐ số BD 117161; BD 117162; BD 117163 cùng ngày 26/10/2010 cho bà Phạm Thị N.

- Quá trình thu thập chứng cứ, xác minh theo sơ đồ chồng ghép giữa bản đồ địa chính lập năm 1997 với bản đồ địa chính lập năm 2008 số 1253/2021 do Văn phòng đăng ký đất đia chi nhánh huyện N thực hiện ngày 06/4/2021 thể hiện:

Phần đất thửa số 32 diện tích 2.000m2 tương ứng với thửa mới là 77 tờ bản đồ số 49 thuộc quyền sử dụng của vợ chồng bà H-ông M hiện có 452m2 đã được UBND huyện Nhơn trạch cấp cho bà Phạm Thị N ở thửa số 76 và 40m2 đất cấp cho bà N tại thửa số 87 tờ bản đồ số 49, cấp cho bà N ngày 26/10/2010. Qua kiểm tra, hiện tại thì bà H-ông M đang chỉ sử dụng 1.558m2 thuc thửa số 77, thiếu 492m2. Bà H- ông M chỉ yêu cầu bà N trả lại 442m2 đất chứ không yêu cầu trả đến 492m2.

- Do xác định việc UBND huyện N cấp đất cho bà Phạm Thị N có cấp chồng lên phần đất 492m2 mà UBND huyện Nhơn trạch đã cấp cho bà Nguyễn Thị H, ông Võ Văn M vào ngày 27/4/2008, nên bà H-ông M khởi kiện đòi bà N phải trả lại diện tích 442m2 đất nêu trên. Tòa án cấp sơ thẩm xử buộc bà N có trách nhiệm trả lại cho bà H-ông M giá trị 442m2 đất theo mức giá 800.000đ/m2 bằng 353.600.000 đồng như trên là có căn cứ.

- Bà Phạm Thị N kháng cáo nhưng không đưa ra được căn cứ nào khác ngoài nhận định trên, nên không được chấp nhận.

- Chấp nhận theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Huy H đại diện cho bà Phạm Thị N kháng cáo.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

[2] Áp dụng khoản 9 Điều 26; khoản 4 Điều 34; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng Hnh chính; khoản 1 Điều 203 Luật đất đai 2013; Điều 166, Điều 169, Điều 175 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn M, bà Nguyễn Thị H đối với bị đơn bà Phạm Thị N về “Tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ”.

Giao cho bà Phạm Thị N được quyền sử dụng phần diện tích đất 492m2 thuộc một phần thửa số 32 tờ bản đồ số 30 xã Phú Đông thuộc quyền sử dụng của bà H-ông M (Thửa mới: số 76 diện tích 452m2 và một phần thửa số 87 diện tích 40m2 tờ bản đồ số 49 xã phú Đông) theo Sơ đồ chồng ghép giữa bản đồ địa chính thành lập năm 1997 và BĐĐC thành lập năm 2008 số 1253/2021 do Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh N thực hiện ngày 06/4/2021 đã được UBND huyện N cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho bà Phạm Thị N theo giấy chứng nhận QSDĐ số BD 117161 và BD 117162 cấp ngày 26/10/2010.

Buộc bà Phạm Thị N phải thanh toán lại giá trị QSDĐ tương ứng diện tích 442m2 x 800.000đ/m2 = 353.600.000 đồng (Ba trăm năm mươi ba triệu sáu trăm nghìn đồng) cho ông Võ Văn M - bà Nguyễn Thị H.

Sau khi án có hiệu lực pháp luật, ông M - bà H phải liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh, cấp đổi lại giấy chứng nhận QSDĐ tương ứng với phần diện tích đất còn lại (trừ phần diện tích 492m2 đã giao cho bà Phạm Thị N) ở thửa đất số 32, tờ bản đồ số 30 Xã Phú Đông (thửa mới số 77 tờ bản đồ số 49) theo thực tế sử dụng.

[3] - Các quyết định còn lại của Bản án sơ thẩm đã xét xử không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Bà Phạm Thị N không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm (do bà N thuộc diện được miễn án phí).

Bản án này là phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày 12/4/2023.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 180/2023/DS-PT

Số hiệu:180/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;