Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 16/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 16/2023/DS-ST NGÀY 14/08/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 14 tháng 8 năm 2023, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án Dân sự thụ lý số 06/2023/TLST-DS, ngày 12 tháng 01 năm 2023. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2023/QĐXX - DS, ngày 04/8/223 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị T; SN: 1979, Địa chỉ: số thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt) Đại diện theo ủy quyền: anh Nguyễn Gia T, sinh năm: 1995, địa chỉ: Thôn Minh Lộc, xã C, huyện X, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: ông Đậu Xuân Đ, Địa chỉ: số 75, Nguyễn C, phường T, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

- Bị đơn: Hồ Thị M, SN: 1960; Địa chỉ: 235B/A8/15 đường N, phường T, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:

Ông Mai Sỹ L – Luật sư văn phòng Luật sư Quang L và cộng sự, đoàn Luật sư tỉnh Nghệ An. (Có mặt) - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. UBND huyện Kỳ A – Đại diện theo pháp luật ông Nguyễn Tiến H. Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Sỹ B – Phó phòng Tài nguyên và môi trường huyện Kỳ A. (Có mặt)

2. UBND xã K, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thành C– Chủ tịch UBND xã K, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

3. Bà Nguyễn Thị Hoài T; Sinh năm: 2001; Địa chỉ: thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt)

 4. Anh Nguyễn Văn X; sinh năm: 2000; Địa chỉ: Thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt) Đại diện theo ủy quyền của Nguyễn Thị Hoài T, Anh Nguyễn Văn X: anh Nguyễn Gia T, sinh năm: 1995, địa chỉ: Thôn Minh Lộc, xã C, huyện X, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

5. Ông Nguyễn Văn N; Sinh năm: 1998 Địa chỉ: thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà tĩnh.(Hiện đang sinh sống tại Đài Loan). (Vắng mặt) Người được ủy quyền: Trần Văn N, sinh năm: 1960, thôn Nguyễn Huệ, xã K, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

6. Bà Phạm Thị D (mẹ ông Ái); Địa chỉ: Thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt) Người được ủy quyền: Bà Nguyễn Thị N; Địa chỉ: Thôn Nguyễn Huệ, xã K, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh.(Có mặt)

7. Ông Nguyễn Đình V; sinh năm: 1971; Địa chỉ: Thôn Nguyễn Huệ, xã K, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

8. Bà Nguyễn Thị N; sinh năm: 1964; Địa chỉ: Thôn Nguyễn Huệ, xã K, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

9. Bà Nguyễn Thị N1; sinh năm: 1973; Địa chỉ: Thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

10. Bà Nguyễn Thị T; sinh năm: 1978; Địa chỉ: Thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

11. Anh Nguyễn Viết H; sinh năm: 1994; Địa chỉ: số nhà: 235B/A8/15 đường N, phường T, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

12. Chị Nguyễn Khánh N; sinh năm: 1989; Địa chỉ: số 199/21 đường Cách mạng tháng 8, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

- Đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Viết H và chị Nguyễn Khánh N: Bà Hồ Thị M, SN: 1960; Địa chỉ: 235B/A8/15 đường N, phường T, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản làm việc và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn Bà Trần Thị T trình bày:

Năm 1995, Bà Trần Thị T và ông Nguyễn Văn A kết hôn hợp pháp với nhau tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh. Trong quá trình sống chung, vợ chồng bà sinh được 03 người con gồm: Nguyễn Văn Như (1998), Nguyễn Văn X (2000); Nguyễn Thị Hoài T (2001) và tạo lập được một khối tài sản chung là thửa đất số 688, tờ bản đồ số 01, diện tích 850 m2 tại thôn X, xã K, huyện K được Ủy ban nhân dân huyện Kỳ A cấp giấy chứng nhận QSDĐ số V 777898, số vào sổ 1325 ngày 18/09/2002 mang tên ông Nguyễn Văn A. Vợ chồng bà xây dựng nhà ở và sinh sống ổn định trên thửa đất. Đến tháng 12 năm 2003, chồng BÀ ông Nguyễn Văn A chết và không để lại di chúc. Sau khi chồng bà chết, thì Giấy chứng nhận QSDĐ nói trên cũng tự dưng biến mất.

Vào năm 2019, bà T phát hiện một phần thửa đất có diện tích 408m2 đã bị chuyển nhượng sang tên cho bà Hồ Thị M (là vợ của anh trai chồng). Cụ thể vào năm 2011, bà Minh đã giả mạo chữ ký của vợ chồng bà ký vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để chuyển nhượng một phần diện tích đất 408m2 sang tên cho bà Minh và sau đó bà Minh đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ phần đất nói trên theo giấy chứng nhận QSDĐ số BH 309518, số vào sổ CH 00171 ngày 23/02/2012 mang tên Hồ Thị M. Tuy nhiên, trên thực tế chồng bà đã chết vào ngày 04/12/2003 (theo giấy trích lục khai tử được ủy ban nhân dân xã K xác nhận), hơn nữa vào thời điểm đó bà đang đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài cũng không thể ký vào hợp đồng chuyển nhượng nói trên. Căn cứ theo hồ sơ thu thập được thì bà phát hiện mọi chữ ký của vợ chồng bà trong hợp đồng chuyển nhượng ngày 10/04/2011 và các giấy tờ liên quan khác đều bị làm giả. Thấy rằng, hồ sơ chuyển nhượng sang tên một phần thửa đất số 688, tờ bản đồ số 01 từ ông Nguyễn Văn A sang cho bà Hồ Thị M là hoàn toàn không đúng với quy định pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà cùng các đồng thừa kế khác.

Do vậy bà T làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 309518, số vào sổ CH00171 ngày 23/02/2012 mang tên Hồ Thị M của thửa đất 688, tờ bản đồ 01 diện tích 408m2 tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

Phân chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn A là một nửa diện đất của thửa đất số đất 688, tờ bản đồ 01 tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện: Không yêu cầu phân chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn A là một nửa diện đất của thửa đất số đất 688, tờ bản đồ 01 tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

* Bị đơn bà Hồ Thị M trình bày:

Bố mẹ chồng bà tên là Nguyễn C và Phạm Thị D, sinh ra chồng bà tên là Nguyễn Viết X, chết năm 1993 (con trai trưởng của gia đình). Bà là Hồ Thị M con dâu trưởng (là vợ anh Xồ), sinh ra được 2 người con, con gái Nguyễn Khánh N sinh năm 1989, con trai Nguyễn Viết H, sinh năm 1994, mẹ con bà đều sống và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 2011, bà đưa cháu về thăm ông bà nội của các cháu tại xóm Xuân Tiến, xã K, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh. Nhân dịp này ông bà bảo con là con dâu trưởng và cháu Hậu là đích tôn, ông bà cho cháu Hậu mảnh đất sau này làm nơi thờ tự khi ông bà trăm tuổi, bà bất ngờ và vô cùng cảm động vì thấy nơi ở của ông bà chỉ là túp lều tranh nhỏ hẹp, chật chội, xung quanh là cây cỏ um tùm mà lại thương cháu đến vậy, ông bảo bà về làm giấy tờ cho cháu Hậu. Bà suy nghĩ và nói “con và cháu ở xa, lại bận công tác không thể về được, nếu ông bà cho cháu thì con nhờ ông bà ra địa phương làm thủ tục giấy tờ giúp con, khi cần gọi con về ký giấy, cháu Hậu đang đi nghĩa vụ công an, không về và không đứng tên trên giấy tờ đất được, con là mẹ đứng tên, sau này cháu Hậu lớn con sang tên cho cháu”, ông bà đồng ý. Đến tháng 02/2012, ông Nguyễn C thông báo cho bà là “cha đã làm xong giấy tờ đất rồi”. Giấy chứng nhận QSD đất số 309518, số vào sổ CH00171, thửa đất 688, tờ bản đồ số 01, diện tích 408m người đứng tên là Hồ Thị M, địa chỉ xóm Xuân Tiến, xã K, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 2013, mẹ con bà xây cất căn nhà chính trên mảnh đất ông bà cho nói trên, hàng năm đi về thăm ông bà có nơi ăn nghỉ thuận lợi, sau này như mong muốn của ông bà là làm nơi thờ tự.

Năm 2015 Bà Trần Thị T về xây cất căn nhà mới và yêu cầu ông bà phá dỡ căn nhà nhỏ mà ông bà sinh sống từ xưa để bà T làm nhà, từ lúc phá dỡ căn nhà nhỏ của ông bà thì ông bà không còn nhà để ở, mẹ con tôi mời ông bà về nhà tôi ở tạm cho đến nay( ông đã chết năm 2020). Năm 2022, tôi đã lớn tuổi và nghỉ hưu, con tôi Nguyễn Viết H đã lớn đủ điều kiện sang tên cho cháu.

Tháng 10/2022, tôi về địa phương trình đơn làm thủ tục đo đạc để sang tên thì bà bất ngờ nhận được đơn của chị Nguyễn Thị Hoài T yêu cầu UBND huyện Kỳ A ngưng cấp đổi giấy chứng nhận QSD đất của tôi và làm đơn khởi kiện đối với bà.

Đại diện theo ủy quyền của Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Dtrình bày:

Việc bà T cho rằng ông Nguyễn C tặng cho vợ chồng bà T thửa đất số 688, tờ bản đồ số 01, diện tích 850m2 tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh thì bà D không biết và bà D chưa bao giờ ký vào hồ sơ tặng cho vợ chồng bà T thửa đất nói trên. Thửa đất trên là tài sản chung của bà D và ông Nguyễn C, hiện nay bà D đang sinh sống trên thửa đất này việc UBND huyện Kỳ A cấp giấy CNQSD đất số V777898 ngày 18/9/2002 mang tên Nguyễn Văn A là trái pháp luật đề nghị hủy giấy CNQSD đất nêu trên và chia di sản thừa thừa kế của ông Nguyễn C cho các đồng thừa kế theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn, bà Nguyễn Thị Ngại, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị N trình bày:

Cha mẹ của các ông bà là ông Nguyễn Chỗ và bà Phạm Thị Dsinh được 8 người con gồm: Nguyễn Viết X (đã mất); Nguyễn Thị N ; Nguyễn Văn, Nguyễn Thị N1; Nguyễn Thị T, Nguyễn Văn A (đã mất); Nguyễn Thị Ngần (đã mất và không có con); Nguyễn H (mất khi còn nhỏ). Trước năm 1980, bố mẹ chúng tôi có tạo lập được khối tài sản chung là thửa đất số 688, tờ bản đồ số 1, diện tích 850 m2 (diện tích thực tế khoảng 1400m2) tại Thôn X, xã K, huyện K, Hà Tĩnh và đã được UBND huyện Kỳ A cấp giấy CNQSD đất ngày 26/05/1996 mang tên ông Nguyễn C.

Năm 2020 ông Chồ mất và không để lại di chúc nhưng trước đây ông có nguyện vọng tặng cho cháu đích tôn Nguyễn Viết H diện tích 408 m2, cháu Nguyễn Văn Như và Nguyễn Văn X con ông Nguyễn Văn A là 442 m2 của thửa đất nêu trên, diện tích đất còn lại khoảng 550 m2 thì chưa có ý định chia cho ai. Tuy nhiên đó là nguyện vọng của bố tôi còn thực tế thì ông chưa làm thủ tục tặng cho các cháu theo quy định của pháp luật, còn mẹ tôi Phạm Thị D thì không đồng ý.

Nay Bà Trần Thị T khởi kiện bà Hồ Thị M và cho rằng vợ chồng bà T và ông Ái đã tạo lập được khối tài sản chung là thửa đất số 688, tờ bản đồ số 1, diện tích 850 m2 và được UBND huyện Kỳ A cấp giấy CNQSD đất số V777898 ngày 18/09/2002 mang tên Nguyễn Văn A là không đúng. Tại buổi làm việc ngày 08/2/2023 bà T khai là ông Nguyễn C tặng cho vợ chồng bà là mâu thuẫn với đơn khởi kiện và không đúng thực tế. Vì bố tôi chưa khi nào ký hồ sơ tặng cho vợ chồng bà T thửa đất trên, còn mẹ tôi thì hoàn toàn không biết việc này nên tôi cho rằng giấy CNQSD đất mà UBND huyện Kỳ A cấp cho Nguyễn Văn A là trái pháp luật nên đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của Bà Trần Thị T, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Văn A và yêu cầu chia thừa kế của ông Nguyễn C.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND xã K, huyện Kỳ A, trình bày:

Thửa đất có nguồn gốc được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho ông Nguyễn C với số vào sổ 522 QSDĐ tại thửa đất số 688, tờ bản đồ số 01/299TTg với diện tích 850m (trong đó: 400m đất ở và 450m đất vườn), ngày 28/5/1996. Thửa đất có diện tích thực tế là: 1438,68m2 - Năm 2002, ông Nguyễn C chuyển quyền sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích thửa đất đã được cấp Giấy chứng nhận nêu trên cho ông Nguyễn Văn A và ông Nguyễn Văn A được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Năm 2011, ông Nguyễn Văn A và Bà Trần Thị T chuyển nhượng quyền sử dụng đất với diện tích 408m (trong đó: 200m đất ở và 208m đất vườn) tại thửa đất số 688, tờ bản đồ số 01/299TTg cho bà Hồ Thị M tại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 10/4/2011 và bà Hồ Thị M được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 309518, số vào sổ CH 00171, ngày 23/02/2012. Tại thời điểm này ông Ái đã mất (mất năm 2003) và bà T đang ở nước ngoài.

UBND xã kính đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND huyện Kỳ A có quan điểm giống như UBND xã Kỳ Đồng, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh.

Kết quả thẩm định tại chỗ ngày 21/6/2023 phản ánh: Diện tích thực tế thửa đất 1.438,68m2 có giá trị 159.794 đồng/2m2 Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký cơ bản đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án không có gì sai phạm. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đề nghị HĐXX: Áp dụng Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 144, 705, 706, 707, 708 Bộ luật dân sự năm 1995; Điều 410, 697, 698, 699, 700, 701, 702 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 130, 131, 500, 501, 502 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 46, 48 Luật đất đai năm 2003; khoản 5 Điều 98, Điều 100, khoản 1 Điều 166 Luật đất đai năm 2013; điểm a khoản 7 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, đề nghị:

- Đình chỉ yêu cầu phân chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn A.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 309518, số vào sổ C 00171 ngày 23/02/2012 mang tên Hồ Thị M của thửa đất 688, tờ bị đồ 01 diện tích 408m2 tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

- Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Dvề tuyên hủy giấy CNQSD đất số V 777898 do UBND huyện Kỳ A cấp ngày 18/09/2002 mang tên ông Nguyễn Văn A đối với 850 m2 tại thôn X, xã K, huyện K; giao cho bà Phạm Thị D719,34 m2 đất tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh. Bà Phạm Thị Dcó trách nhiệm tháo dỡ ngôi nhà cũ đã hết khấu hao trên phần đất thuộc quyền sử dụng của Bà Trần Thị T. Trên phần đất của bà Phạm Thị Dcó một ngôi nhà do bà Hồ Thị M xây dựng nhưng các đương sự không có yêu cầu gì nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Bà Trần Thị T khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 309518, số vào sổ CH00171 ngày 23/02/2012 mang tên Hồ Thị M của thửa đất 688, tờ bản đồ 01 diện tích 408m2 tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh và phân chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn A là một nửa diện đất của thửa đất số đất 688, tờ bản đồ 01 tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn X, Nguyễn Văn Như, Nguyễn Thị Hoài T có thông tin xuất cảnh nước ngoài.

Căn cứ quy định tại Khoản 5, 9 Điều 26; Điều 34, 37, 38 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Điều 32 Luật Tố tụng hành chính thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp chia di sản thừa kế và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về nguồn gốc thửa đất đang có tranh chấp:

Các đương sự, nguyên đơn Bà Trần Thị T, bị đơn bà Hồ Thị M và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là con đẻ của ông Nguyễn C và bà Phạm Thị Dđều thừa nhận: Sinh thời, ông Nguyễn C và bà Phạm Thị Dtạo lập được khối tài sản chung là thửa đất số 688, tờ bản đồ số 1, diện tích 850m2 (Diện tích thực tế khoảng 1400m2 ) tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh và đã được UBND huyện Kỳ A cấp giấy CNQSD đất ngày 26/5/1996 mang tên ông Nguyễn C. Năm 2002 ông Chồ đã chuyển quyền sử dụng đất số 688 nêu trên cho ông Nguyễn Văn A, đến năm 2003 ông Ái mất, năm 2012 ông chồ tự ý chuyển quyền sử dụng đất từ vợ chồng Nguyễn Văn A, Trần Thị Tám sang tên Hồ Thị M.

[2.2]. Về việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn xin rút yêu cầu khởi kiện về việc Phân chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn A là một nửa diện đất của thửa đất số đất 688, tờ bản đồ 01 tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh. Xét thấy việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện, do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bà Trần Thị T về việc yêu cầu phân chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn A là một nửa diện đất của thửa đất số đất 688, tờ bản đồ 01 tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

[2.3 Về yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất - Đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/4/2011 giữa ông Nguyễn Văn A, Bà Trần Thị T với bà Hồ Thị M: Bà Hồ Thị M cho rằng trước lúc chết ông Nguyễn C đã làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với 408m2, thửa đất 688, tờ bản đồ số 01 tại xóm Xuân Tiến, xã K, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh cho bà, lúc đó bà Minh cùng các con sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh, nên khi được ông Nguyễn C cho đất, bà đã nhờ ông Nguyễn C làm thủ tục. Đến tháng 02 năm 2012, ông Nguyễn C thông báo đã làm xong giấy tờ đất, bà Hồ Thị M được UBND huyện Kỳ A cấp Giấy CNQSD đất số 309518, số vào sổ CH00171 đối với thửa đất nói trên.

Theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với bà Hồ Thị M do UBND huyện Kỳ A cung cấp thể hiện:

Tại hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/4/2011 thể hiện người ký đại diện bên A là Bà Trần Thị T và ông Nguyễn Văn A. Tuy nhiên tại trích lục khai tử số 258/TLKT-BS ngày 27/7/2022 thể hiện ông Nguyễn Văn A đã chết vào ngày 04/12/2003 và quá trình làm việc Bà Trần Thị T khẳng định vào thời điểm này bà đang đi xuất khẩu lao động tại nước ngoài không có mặt tại địa phương bà khẳng định chữ ký tại hợp đồng chuyển nhượng là giả mạo. Quá trình làm việc bà Phạm Thị Dcũng khai nhận bà không hề biết việc ông Nguyễn C chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Hồ Thị M.

Việc ông Nguyễn C tự ý làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi không có mặt các bên, chưa thể hiện đúng ý chí của Bà Trần Thị T, bà Phạm Thị Dvà chữ ký của ông Nguyễn Văn A, Bà Trần Thị T, bà Hồ Thị M tại hồ sơ chuyển nhượng là giả mạo, không được chứng thực theo tinh thần tại khoản 2.3 mục II, Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Điều 410, 697, 698, 699, 700, 701, 702 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 130, 131, 500, 501, 502 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/4/2011 giữa ông Nguyễn Văn A, Bà Trần Thị T với bà Hồ Thị M vô hiệu.

Vì Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/4/2011 giữa ông Nguyễn Văn A, Bà Trần Thị T với bà Hồ Thị M vô hiệu nên giấy CNQSD đất số 309518, số vào sổ CH00171 do UBND huyện Kỳ A cấp cho bà Hồ Thị M không đảm bảo căn cứ quy định tại 46, 48 Luật đất đai năm 2003; Điều 100 Luật đất đai năm 2013. Vì vậy, có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Trần Thị T về việc Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 309518, số vào sổ CH 00171 ngày 23/02/2012 mang tên Hồ Thị M của thửa đất số 688, tờ bản đồ 01 diện tích 408m2 tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

- Bà Phạm Thị Dđề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V777898 ngày 18/9/2002 mang tên Nguyễn Văn A đối với thửa đất số 688, tờ bản đồ số 01, diện tích 850m2 tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh vì bà cho rằng không biết và không hề ký vào bất kỳ hồ sơ tặng cho vợ chồng bà T thửa đất nêu trên.

Đối với đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/7/2002 giữa ông Nguyễn C và ông Nguyễn Văn A đã được chính quyền địa phương xác nhận. Tuy nhiên, thửa đất số 688, tờ bản đồ số 1, diện tích 850m2 tại thôn X, xã K, huyện K là tài sản chung trong giai đoạn hôn nhân giữa ông Nguyễn C và bà Phạm Thị D, nhưng tại văn bản chuyển nhượng không có chữ ký của bà Phạm Thị D. Đồng thời bà Phạm Thị Dkhẳng định bà không biết về việc chuyển nhượng nói trên. UBND xã K và UBND huyện Kỳ A thừa nhận sai sót trong quá trình chứng thực hợp đồng cũng như sai sót trong thủ tục cấp giấy CNQSD đất số V777898, số vào sổ 1325 ngày 18/09/2002 mang tên ông Nguyễn Văn A. Vì vậy, căn cứ Điều 27 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 xác định đây là tài sản chung giữa ông Nguyễn C và bà Phạm Thị D. Ông Nguyễn C chỉ có quyền sử dụng đối với ½ thửa đất nói trên. Tại hồ sơ chuyển nhượng đất đã thể hiện ý chí, nguyện vọng của ông Nguyễn C về việc chuyển quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn A, việc chuyển nhượng đã được cơ quan chính quyền xác thực và cấp giấy CNQSD đất. Sau khi nhận chuyển nhượng, ông Nguyễn Văn A và Bà Trần Thị T cùng các con đã sinh sống ổn định, xây dựng nhà ở trên một phần thửa đất nói trên và không ai có ý kiến gì. Đặc biệt bà Phạm Thị Dcùng sống trên thửa đất cũng không có ý kiến gì. Vì vậy, cần xem xét để công nhận vô hiệu phần hợp đồng có diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà Phạm Thị Dvà công nhận có hiệu lực đối với phần hợp đồng có diện tích đất thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn C để đảm bảo quyền lợi đồng đều cho các bên đương sự. Vì ông Nguyễn Văn A nhận chuyển nhượng trong thời kỳ hôn nhân với Bà Trần Thị T (kết hôn năm 1997) nên tài sản này thuộc tài sản chung của vợ chồng. Sau khi được cấp đất ông Nguyễn Văn A và Bà Trần Thị T đã xây dựng nhà ở kiên cố trên đất, ông Nguyễn C và bà Phạm Thị Dcùng các đồng thừa kế khác của ông Nguyễn C đều biết việc xây dưng trên của vợ chồng ông Ái, bà T nhưng không ai có khiếu nại gì. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ông Chồ, bà D về việc cho ông Ái, bà T một phần diện tích đất.

Ngoài ra, theo kết quả thẩm định diện tích đất thực tế hiện nay 1438,68 m2 (nhiều hơn 588,68 m2 so với giấy CNQSD đất). Đại diện UBND huyện Kỳ A khẳng định 588,68 m2 đất này đủ điều kiện để được cấp giấy CNQSD đất. Vì năm 2002, ông Nguyễn C đã chuyển nhượng toàn bộ thửa đất cho gia đình ông Nguyễn Văn A nên sẽ xem xét đối với toàn bộ thửa đất là 1438,68 m2.

Căn cứ khoản 2.3 mục II, Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Điều 144, 705, 706, 707, 708 Bộ luật dân sự năm 1995; Điều 130, 131, 500, 501, 502 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định ½ thửa đất tại thôn X, xã K, huyện K thuộc quyền sử dụng của bà Phạm Thị D, công nhận ½ thửa đất thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn A và Bà Trần Thị T. Đối với phần hợp đồng vô hiệu, cần trao trả cho nhau những gì đã nhận, Bà Trần Thị T trả lại cho bà Phạm Thị D719,34 m2 đất, giao cho bà Phạm Thị Dphần đất đang sinh sống ổn định, không có tài sản của Bà Trần Thị T.

Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị Dvề tuyên hủy giấy CNQSD đất số V 777898 do UBND huyện Kỳ A cấp ngày 18/09/2002 mang tên ông Nguyễn Văn A đối với 850 m2 tại thôn X, xã K, huyện K.

- Từ phân tích trên xác định phần diện tích đất của ông Nguyễn C đã chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn A nên ông Nguyễn C không còn di sản để chia thừa kế theo quy định pháp luật. Vì vậy không chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị Dvề việc chia di sản của ông Nguyễn C cho các đồng thừa kế theo quy định pháp luật.

[3.2] Về án phí và chi phí tố tụng khác: Căn cứ khoản 2 Điều 147 bộ luật tố tụng dân sự và điểm a, khoản 7 Điều 27, Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với kỷ phần giá trị tài sản mà mình được hưởng, bà Phạm Thị D là người cao tuổi đã có đơn xin miễn giảm án phí nên xem xét miễn án phí theo quy định tại Điều 2 Luật Người cao tuổi và điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/NQ của Ủy Ban thường vụ Quốc hội.

Chi phí tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ nguyên đơn tự nguyện nộp nên các đương sự khác không phải nộp.

[3.4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định Pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 144, 705, 706, 707, 708 Bộ luật dân sự năm 1995; Điều 410, 697, 698, 699, 700, 701, 702 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 130, 131, 500, 501, 502 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 46, 48 Luật đất đai năm 2003; khoản 5 Điều 98, Điều 100, khoản 1 Điều 166 Luật đất đai năm 2013; Điều 2 Luật Người cao tuổi và điểm a khoản 7 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, - Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bà Trần Thị T về việc yêu cầu phân chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn A là một nửa diện đất của thửa đất số đất 688, tờ bản đồ 01 tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 309518, số vào sổ C 00171 ngày 23/02/2012 mang tên Hồ Thị M của thửa đất 688, tờ bị đồ 01 diện tích 408m2 tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh.

- Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Dvề tuyên hủy giấy CNQSD đất số V 777898 do UBND huyện Kỳ A cấp ngày 18/09/2002 mang tên ông Nguyễn Văn A đối với 850 m2 tại thôn X, xã K, huyện K;

Giao cho bà Phạm Thị D719,34 m2 đất tại thôn X, xã K, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh (Ký hiệu S1). Có giá trị: 159.794 đồng x 719,13m2 =114.912.659 đồng Bà Phạm Thị Dcó trách nhiệm tháo dỡ ngôi nhà cũ đã hết khấu hao trên phần đất thuộc quyền sử dụng của Bà Trần Thị T với diện tích 719,53m2. (Ký hiệu S2). Có giá trị: 159.794 đồng x 719,53m2 =114.976.577 đồng (Có sơ đồ thể hiện phần đất cụ thể giao cho các đương sự kèm theo bản án).

[2] Về án phí: Bà Trần Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. ( Đã nộp tại biên lai số 0000460 ngày 12/01/2023 tại cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh) Bà Trần Thị T phải chịu 5.749.000 đồng tiền án phí dân sự có giá ngạch Bà Phạm Thị Dkhông phải chịu án phí dân sự.

Bà Trần Thị T tự nguyện chịu chi phí thẩm định, định giá (Bà Trần Thị T đã nộp).

[3] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc bản án được niêm yết theo quy định. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 16/2023/DS-ST

Số hiệu:16/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;