TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
BÀN ÁN 24/2023/DS-ST NGÀY 15/05/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT RANH ĐẤT
Ngày 15 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 41/2020/TLST-DS ngày 19 tháng 5 năm 2020 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất về ranh đất”, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Văn M, sinh năm 1964. Địa chỉ: Số E ấp N, xã G, huyện M, tinh Sóc Trăng; (có mặt)
- Bị đơn: Bà Lê Thị P (Lê Ngọc P1), sinh năm 1975. Địa chỉ: Số E, ấp N, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lê Thị N, sinh năm 1953; Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt) 2. Ông Lê Văn T, sinh năm 1957; (vắng mặt) Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà N, ông T: ông Lê Văn M, sinh năm 1965; Địa chỉ: Số E ấp N, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng - theo văn bản ủy quyền ngày 12/6/2019; (có mặt) 3. Bà Lê Thị G (Lê Ngọc G1), sinh ngày 01/01/1968 (có mặt) 4. Bà Lê Thị S, sinh ngày 01/01/1971; (vắng mặt) 5. Bà Lê Thị H, sinh năm 1978; (vắng mặt) 6. Bà Nguyễn Thị Diễm M1, sinh ngày 20/11/1997; (có mặt) 7. Ông Quách Trung N1, sinh năm 1985; (vắng mặt) Cùng địa chỉ: ấp N, xã G, huyện M, tinh Sóc Trăng.
8. Bà Lê Thị K, sinh năm 1982; (vắng mặt) Địa chỉ: N. 19-17, D, Cihtong T1, Yunlin C, T (R.O.C).
9. Bà Nguyễn Thị Hồng G2 (Nguyễn Thị B), sinh năm 1973. Địa chỉ: ấp A, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt) 10. Bà Lê Thị T2 (T3), sinh năm 1994. Địa chỉ: ấp A, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt) 11. Ông Lê Trí H1, sinh năm 2002. Địa chi: ấp A, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 10/5/2019 và quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn ông Lê Văn M trình bày:
Phần đất thuộc thửa 89, tờ bản đồ số 01, diện tích 6.925m2, tọa lạc tại ấp N, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng là của cha ông M là ông Lê Văn M2 (đã chết vào năm 2016) được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyển sử dụng đất và ông M2 đã làm di chúc cho ông M phần đất nêu trên. Gia đình ông M canh tác, quản lý và sử dụng ổn định, cạnh bên là thửa 91 của bà Lê Thị P đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lúc còn sống cha của ông M và bà Lê Thị P đã cậm ranh rõ ràng, hai bên không tranh chấp và sử dụng đến năm 2018. Nhưng đến cuối năm 2018 thi ông M có làm hàng rào và phát sinh tranh chấp vì bà P không chịu cọc ranh cũ mà đòi lấn qua đất của ông với chiều ngang 1,5m, chiều dài khoảng 180m, diện tích 270m2, thuộc thửa số 89, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại ấp N, xã G, huyện M, tinh Sóc Trăng.
Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Lê Thị P phải trả lại phần đất mà bà Lê Thị P đã lấn chiếm của ông M có diện tích 377,1m2, thuộc thửa số 89, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại ấp N, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 08/6/2020, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn bà Lê Thị P trình bày:
Phần đất tranh chấp là của cha bà tên Lê Văn C đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất gốc của ông nội Lê Văn T4, bà nội Trần Thị T5 cho lại con trai út là cha bà tên Lê Văn C. Hiện nay đất vẫn còn đứng tên cha của bà, hiện nay bà là người trực tiếp canh tác sử dụng phần đất của cha mẹ để lại, mẹ bà tên Trần Thị Ngọc B1. Bà không đồng ý với yêu cầu của ông M, vì đất giáp ranh với ông M thi ổng tự cặm ranh, còn của bà vẫn sử dụng ranh từ trước đến giờ. Phần ao và phần đường đi là phần đất của gia đình bà, hiện nay ông M cho rằng lối đi cặp ao là đất của ông M bà không đồng ý. Lúc cha bà còn sống thì đã chia cho các anh chị em của bà, hiện trạng đất vẫn y nguyên chưa chuyển nhượng cho ai.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị s, bà Lê Thị H, ông Quách Trung N1, bà Lê Thị K, bà Nguyễn Thị Hồng G2 (Nguyễn Thị B), bà Lê Thị T2 (Thuỳ), ông Lê Trí H1 đà được cấp tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia phiên hòa giải công khai chứng cứ và vắng mặt tại phiên tòa.
Tại phiên toà sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị G (Lê Ngọc G1) trình bày: Giữa bên ông M với bên gia đình của bà có mối quan hệ chú ông bác ruột. Các ranh cắm cọc sử dụng từ trước đến nay giữa ranh đất bên ông M với phần đất của gia đình bà thì vẫn y như vậy, nhưng có ranh ờ giáp lộ thì ông M có dời sang bên phần đất Thửa số 91 khoảng 01m và phần ranh mé sông cũng dời sang bên phần đất Thửa số 91 khoảng 01m. Nên không đồng ý với yêu cầu của ông M. Các anh chị em của bà đều biết việc mở phiên toà hôm nay để xét xử nhưng do làm ăn nên không tham gia được.
Tại phiên toà sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà M1 trình bày: Ranh giới giữa 02 thửa đất thì từ hồi ông ngoại bà còn sống đã có thống nhất ranh, các ranh hiện nay ở giữa thì từ trước đến nay vẫn như vậy, nhưng ranh cặp lộ và ranh mé sông thì ông M đã dời qua Thửa đất số 91 khoảng 01m. Các cô và mẹ của bà đều biết hôm nay toà án mở phiên toà để xét xử, nhưng do làm ăn nên không tham gia được. Nay không đồng ý với yêu cầu của ông M.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã xác định đúng thẩm quyền thụ lý vụ án, quan hệ tranh chấp, xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng, việc thu thập chứng cứ và gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đảm bảo đúng quy định.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật về phiên tòa sơ thẩm.
Về nội dung, nguyên đơn khởi kiện và cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp, bị đơn phản bác yêu cầu của nguyên đơn nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh. Nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc bị đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Về sự có mặt của đương sự: Bị đơn bà Lê Thị P (Lê Ngọc P1) vắng mặt không rõ lý do và không có người đại diện tham gia phiên toà; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị N, ông Lê Văn T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có người đại diện là ông Lê Văn M tham gia phiên tòa; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị S, bà Lê Thị H, ông Quách Trung N1, bà Lê Thị K, bà Nguyễn Thị Hồng G2 (Nguyễn Thị B), bà Lê Thị T2 (T), ông Lê Trí H1 vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do và không có người đại diện tham gia phiên tòa. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 227; Khoản 2, 3 Điều 228; Điều 247; Điều 474 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà N, ông T, bà S, bà H, ông N1, bà K, bà G2, bà T2, ông H1.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị K hiện tại có địa chi tại Đài Loan. Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 464; khoản 3 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
[3] Về quan hệ hanh chấp: Nguyên đơn ông Lê Văn M yêu cầu bị đơn bà Lê Thị P (Lê Ngọc P1) trả phần đất mà lấn chiếm với chiều ngang 1,5m, chiều dài 180m, diện tích 270m2, thuộc thửa số 89, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại ấp N, xã G, huyện M, tinh Sóc Trăng để trả lại ranh cũ. Nên đày là tranh chấp về dân sự và quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp quyền sử dụng đất về ranh đất” theo Khoản 9 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung:
[4] Xét nguyên đơn ông Lê Văn M yêu cầu bị đơn bà Lê Thị P (Lê Ngọc P1) trà phần đất mà bà đã lấn chiếm có diện tích 377,1m2, thuộc thửa số 89, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại ấp N, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, nhận thấy:
Đối với Thửa đất số 89, tờ bản đồ số 1, diện tích 6.925m2, loại đất LNK, nằm trong thửa đất này còn có Thửa đất số 682, diện tích 150m2, loại đất T, tổng diện tích 2 thửa đất là 7.075m2, đất tọa lạc tại ấp N, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng là của ông Lê Văn M2 là cha của ông Lê Văn M đứng tên theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C 896847 do Ủy ban nhân dàn huyện M cấp cho hộ ông Lê Văn M2, nhưng không có ngày tháng năm cấp. Ông M2 chết năm 2016 nhưng vào ngày 23/6/2014 có lập di chúc được chứng thực của Ủy ban nhân dân xã G 2 ngày 08/7/2014 và vào ngày 26/6/2014 các anh chị em của ông M gồm Lê Thành V, Lê Văn T6, Lê Văn N2, Lê Thị N, Lê Thị G3 lập Biên bản họp gia đình thống nhất chia cho ông Lê Văn M tổng diện tích đất 17.676m2, gồm 7.075m2 đất LNK và 10.601m2 đất lúa tọa lạc tại ấp N, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. Hiện nay ông M là người đang trực tiếp quản lý sử dụng đất và chưa tiến hành đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Giáp ranh hướng Đông của Thửa đất số 89 là Thửa đất số 91 có diện tích 4.821m2, loại đất LNK, nằm trong thửa đất này còn có Thửa đất số 582, diện tích 150m2, loại đất T, tổng diện tích 2 thửa đất là 4.971m2, đất tọa lạc tại ấp N, xã G, huyện M, tinh Sóc Trăng. Hai thửa đất này theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C896173 do Ủy ban nhân dân huyện M cấp cho hộ ông Lê Văn C là cha của bà P1, nhung không có ngày tháng năm. ông C chết không có di chúc hay giấy tờ cho tặng đất lại cho ai và phần diện tích đất này hiện nay đang do bà Lê Thị P (Lê Ngọc P1) trực tiếp quản lý sử dụng.
Trong quá trình sử dụng đất, thi ông M cho rằng lúc cha của ông và cha của bà P1 còn sống thì có thống nhất cặm ranh bằng trụ đá đúng như các ranh mà ông đà chi khi Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định vào ngày 27/8/2019 và đúng theo bân vẽ sơ đồ hiện trạng thửa đất ngày 09/9/2019 do Công ty TNHH H2 thực hiện tại các điểm 8, 9, 10, 11,12 và 13.
Tại Biên bản xác minh ngày 12/4/2021 đối với ông Lê Văn G4 là công chức địa chính xã G, huyện M cung cấp thông tin: Sau khi xem xét sơ đồ hiện trạng thuộc các thửa đất số 89, 682, 91, 582, cùng tờ bản đồ số 01, đất tọa lạc tại ấp N, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng thì các góc thửa đất do ông M chi ranh gồm các điểm số 8, 9, 10, 11, 12, 13 là đúng với bản đồ địa chính do Ủy ban nhân dân xã Q và chính quyền địa phương cũng có đo đạc giải quyết nhiều lần. Nên ranh giới mà ông M chỉ là đúng với giấy chứng nhận quyển sử dụng đất của hộ ông M.
Theo Biên bản xác minh ngày 12/4/2021 đối với ông Lâm Quốc T7, sinh năm 1962, ông Nguyễn Văn V1, sinh năm 1959, cùng ngụ ấp N, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng cung cấp thông tin như sau: ông T7 và ông V1 đã sinh sống tại ấp N từ nhỏ tới lớn và biết rất rõ phần ranh tranh chấp giữa ông M với bà P1. Vì trước đây hai ông một người là trưởng ban và một người là phó ban nhân dân ấp, đã từng giải quyết rất nhiều lần tranh chấp giữa ông M với bà P1. Ngoài ra, khi giải quyết tại Ủy ban nhân dân xã thi hai ông có tham gia giải quyết và đo đạc cặm ranh đất giữa hai bên. Trong quá trình sử dụng đất lâu dài và hiện nay ranh đất các bên không còn nữa. Sau khi được xem sơ đồ hiện trạng các Thửa đất thuộc Thửa số 89, 682, 91 và 582, cùng tờ bản đồ số 01, đất tọa lạc tại ấp N, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng thì hai ông xác định phần ranh đất do ông M chỉ ranh có các điểm số góc 8, 9, 10, 11, 12, 13 là đúng như hiện trạng ranh từ trước đến nay, cũng như đúng với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông M.
Đối chiếu với bản sao chụp tại vị trí có các Thửa 89, 682, 91, 582 của bản đồ địa chính dạng giấy đang lưu trữ tại chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện M cung cấp, thì phần ranh giới giữa các Thửa 89, 682, 91, 582 tương tự như ranh giới giữa các thửa đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp, tương tự như ranh giữa các thửa đất do ông M chỉ ranh theo bản vẽ sơ đồ hiện trạng các thửa đất ngày 09/9/2019 do Công ty TNHH H2 thực hiện tại các điểm số góc 8, 9, 10, 11,12, 13.
Đối với ranh đất theo sự chi ranh của bị đơn bà P1 thì ngoài sự chỉ ranh của bà P1 ra không có tài liệu, chứng cứ hay người hiểu biết sự việc xác định ranh như bà P1 chỉ.
Do đó, có đủ căn cứ xác định ranh đất giữa các thửa đất số 89, 682 với các thửa đất số 91, 582 theo các điểm 8, 9, 10, 11, 12, 13 của bản vẽ sơ đồ hiện trạng các thửa đất ngày 09/9/2019 do Công ty TNHH H2 thực hiện. Nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn M là có căn cứ chấp nhận.
[5] Từ những nhận định, phân tích trên thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận; Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phái chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[7] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26; khoản 4 Điều 34; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 165; Điều 271; Điều 273; Điều 278 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 163; Điều 164; Điều 166 của Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 166; Điều 203 của Luật đất đai năm 2013;
Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn M:
Ranh giới của các thửa đất số 89, 682 cấp cho hộ Lê Văn M2, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C896847, số vào sổ 0115 với các thửa đất số 91, 582 cấp cho hộ Lê Văn C, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: C896173, số vào sổ 00041 tờ bản đồ số 1, đất toạ lạc tại ấp N, xã G, huyện M, tỉnh Sóc Trăng được xác định như sau:
Từ điểm 8 đến điểm 9 có độ dài = 40,51 mét;
Từ điểm 9 đến điểm 10 có độ dài = 5,74 mét;
Từ điểm 10 đến điểm 11 có độ dài = 25,55 mét;
Từ điểm 11 đến điểm 12 có độ dài = 2,91 mét;
Từ điểm 12 đến điểm 13 có độ dài = 67,76 mét.
(Kèm theo toạ độ các điểm sơ đồ hiện trạng thửa đất do Công ty trách nhiệm hữu hạn H2 thực hiện đo vẽ ngày 09/9/2019).
2. Về án phí dàn sự sơ thẩm: Bị đơn bà Lê Ngọc P1 (Lê Thị P) phải nộp 300.000 đồng. Nguyên đơn ông Lê Văn M không phải chịu án phí. Hoàn trả nguyên đơn ông Lê Văn M số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0008926 ngày 20/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
3. Về chi phí ủy thác tư pháp: Bị đơn bà Lê Ngọc P1 (Lê Thị P) phải chịu số tiền 1.821.421 đồng. Nguyên đơn ông Lê Văn M không phải chịu được hoàn trả số tiền 400.000 đồng tạm ứng chi phí ủy thác theo Biên lai thu tiền phí, lệ phí số 0008038 ngày 08/7/2020, số 0001564 ngày 30/5/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng, số tiền 1.117.000 đồng theo Giấy nộp tiền số 1 ngày 07/5/2021 của Ngân hàng Thương mại cổ phần C1 và số tiền 304.421 đồng theo Giấy đề nghị mua ngoại tệ giao ngay kiêm lệnh chi kiêm yêu cầu chuyển tiền ngoại tệ ngày 30/6/2022.
4. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: số tiền 8.000.000 đồng (theo Phiếu thu ngày 27/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng), bị đơn bà Lê Ngọc P1 (Lê Thị P) phải chịu. Do nguyên đơn ông Lê Văn M đã nộp tạm ứng trước và đã sử dụng hết cho việc thẩm định, định giá nên bị đơn bà Lê Ngọc P1 (Lê Thị P) có nghĩa vụ nộp số tiền 8.000.000 đồng để hoàn trả nguyên đơn ông Lê Văn M.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Riêng đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo nêu trên tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được cấp, tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thi người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014), thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bàn án về tranh chấp quyền sử dụng đất ranh đất số 24/2023/DS-ST
Số hiệu: | 24/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/05/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về